
niu một cách ích kỷ. Ích kỷ tới nỗi tôi muốn hình ảnh đó sống mãi và không muốn thấy em thay đổi.Tối hôm ấy là lần cuối cùng tôi gặp Châu. Tôi vẫn nhớ trước lúc ra về, em nói thế này:-Tùng nhớ vẽ tiếp nhé! Tớ vẫn theo dõi đấy!Em cười thật tươi rồi chào tạm biệt tôi. Tính từ câu nói ấy, đến giờ đã gần sáu năm. Sau ngần ấy thời gian, liệu em còn theo dõi tôi vẽ nữa không? Tôi không biết. Nhưng tôi tin lời em, kể cả khi nó chỉ là lời động viên xã giao. Tin và không bao giờ suy xét nó đúng hay sai, tôi đã kết thúc quãng đời cấp ba như thế. Gác lại những kỷ niệm, bỏ lại những buồn phiền, tôi giã từ cuộc sống học sinh. Từ nay, tôi là sinh viên, tân sinh viên! Hé hé!Đại học là một ngưỡng cửa hoàn toàn mới. Trước tiên là tôi giã từ chiếc xe đạp quen thuộc và chuyển sang đi xe máy. Từ việc phải đeo thẻ sinh viên mới cho vào trường, giảng đường rộng lớn thay cho lớp học, giảng viên thì cứ giảng khỏi cần quan tâm sinh viên nghe hay không (tất nhiên không thiếu ông thầy bà giáo khó tính), sinh viên ăn mặc thoải mái và những cô gái tươi non mơn mởn. Muôn thuở là vậy, đời thằng con trai trước tiên phải tia xem gái xuất hiện ở chỗ nào đã, học hành tính sau! He he! Vì là ngành tài chính nên khóa của tôi cũng lắm cô theo học, cơ bản là không thiếu mùi nữ giới như ở mấy trường Xây Dựng hay Bách Khoa. Có một điều tôi chiêm nghiệm ra là ở các trường thiếu bóng hồng, các ông con trai có xu hướng quậy, quái và khùng hơn nhiều. Cái gì mà “No woman no cry” chứ? Bob Marley ơi, không có phụ nữ là khóc tiếng mán luôn đó!Tựu chung những thằng sinh viên năm nhất đều rất hăng hái học tập. Tôi cũng rứa. Tôi nghĩ một ngày kia, mình sẽ trở thành nhân viên ngân hàng khoác bộ suit bóng lộn, lương tháng nhiều vật vã, đi làm trên con ô tô nho nhỏ, ở trong một ngôi nhà to vật vã và một cô vợ nho nhỏ. Giấc mơ này chạm ngưỡng hoang tưởng – cơ mà thằng tân sinh viên nào cũng hoang tưởng hết. Thậm chí lắm đứa còn nảy sinh tư tưởng coi thường nghề nghiệp, như kiểu khinh thường người phát tờ rơi. Chúng nó không hề biết rằng đó chính là việc mà một nhân viên tín dụng phải làm, nhưng đấy là câu chuyện khi ra xin việc.Vì sự hoang tưởng ấy, tôi cố gắng nuốt toán cao cấp, môn xác suất thống kê, marketing cơ bản, kinh tế học… đủ thứ hầm bà lằng xoay quanh một chữ “tiền”. Trường hồi ấy vẫn học theo niên chế chứ chưa theo quy tắc tín chỉ như bây giờ, thành thử việc học cũng không khác cấp ba nhiều lắm. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành học kỳ I với điểm số toàn hạng khá, tôi phải thừa nhận rằng mình không hề thích ngành tài chính. Tôi có thể trở thành nhân viên tài chính làm những công việc lặp đi lặp lại, nhưng sự lặp đi lặp lại đó khiến tôi phát nản. Cái “máu” vẽ đã ngấm vào người tôi quá lâu, đóng gỉ đóng cặn trên từng thớ thịt thớ xương, nay gặp số má công thức thì chán nản cũng dễ hiểu.Chán học, tôi quay ra tìm cách kiếm tiền, gọi một cách mỹ miều là kinh doanh. Tôi khởi nghiệp bằng… bán hàng đa cấp. Nghe hài hước nhưng là sự thật. Cách đây chỉ 6 năm thôi, mọi đứa sinh viên năm nhất đều kinh qua bán hàng đa cấp. Nghe người ta nằm không kiếm ra trăm triệu đồng, đứa nào chả sướng? Tôi đã tốn 90 nghìn để tham gia hệ thống kinh doanh mỹ phẩm đa cấp, từng bán sản phẩm cho bạn bè và người thân trong gia đình, từng năn nỉ mồi chài các kiểu con đà điểu. Và một đặc điểm chung là họ đều không nhờ tôi mua lần hai, ánh mắt mà họ dành cho tôi cũng trở nên nghi kỵ hơn. Đồng lãi kiếm ra chưa đến trăm nghìn mà cái giá tôi phải trả thực quá đắt. Thấy vậy, tôi nghỉ ngay công việc này. Về sau, gặp những ông bạn cứ dụ khị “mày đi với tao, có cái này hay lắm, kiếm nhiều tiền cực!” là tôi chỉ cười trừ, coi như không biết gì. Kinh doanh cần người có tố chất, tôi không phải loại đó.Học hành chán, kinh doanh chẳng đâu ra đâu, như một hệ quả, tôi quay lại vẽ vời. Tất nhiên là vẫn hoàn thành bài học, đi học đầy đủ (tôi dám nói rằng mình là thằng chuyên cần có số má) nhưng tôi dành nhiều thời gian cho vẽ hơn. Sau giờ đi học, tôi lại trầm mình trong giấy, màu và máy tính; khi vẽ giấy, khi vẽ máy (bằng chương trình Paint), khi sáng tác những đoạn truyện tranh nhỏ. Và dĩ nhiên không thể thiếu rock – metal. Bố mẹ chẳng cấm cản tôi nữa, dù thi thoảng vẫn cằn nhằn “học đi mày, vẽ không ra tiền đâu!”. Mỗi lần ra bức vẽ mới, tôi lại scan và upload lên trang web mà Châu để lại cho mình. Tôi vẽ đều, up đều và chưa bao giờ chán công việc ấy. Có thể tôi đã lớn, người to xác ra (tôi cao hơn bố mẹ nhiều lắm) nhưng khát khao vẽ trong tôi chẳng hề lớn chút nào. Nó vẫn trẻ, vẫn cuồng nhiệt, ngây thơ và thậm chí điên khùng, hệt như thuở bé vậy.Khi con người lớn lên, những giấc mơ đều trở thành phù phiếm. Tôi là một trong số ít những người vẫn lưu giữ giấc mơ thời bé và phấn đấu vì nó. Cũng bởi thế, tôi trở nên lập dị trong mắt nhiều người. Ví dụ như thằng Cuốc và thằng Sĩ, chúng nó nghĩ sự nghiệp vẽ vời của tôi chỉ là thứ vớ vẩn và khuyên tôi nên tập trung làm việc khác. Thằng Sĩ nói:-Ông vẽ được như Picasso không? Không chứ gì? Thế thì tập trung kiếm tiền đi ông ạ! Đập Muỗi! Bọn tôi định mở cửa hàng,