
bầu trời đêm ngoài cửa sổ. Không có nhiều sao lắm.
Khu vườn nhỏ rất yên tĩnh, yên tĩnh như những đóa hoa súng im lìm bất động trong tranh vậy. Tôi ôm chiếc chăn bông mềm mại ấp áp trong lòng, hít lấy mùi nắng, len lén quan sát Lông Mi. Dưới ánh trăng mờ mờ, mấy lọn tóc của em lòe xòe trước trán, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn, nét mặt thanh thản như ánh trăng ngoài kia.
Cảm giác hạnh phúc lại dâng trào rồi chạy khắp cơ thể một lần nữa.
###
Thấm thoắt tôi đã ở nhà em được mấy ngày.
Mở mắt ra, căn phòng lúc nào cũng trống rỗng. Bò dậy, Lông Mi lúc nào cũng đang ngồi dưới mái hiên chăm chỉ vẽ tranh. Trên chiếc bàn nhỏ đặt một cốc sữa, một đĩa bánh mì nướng, một món rau sạch không có thuốc bảo quản. Thấy tôi tỉnh lại, Lông Mi liền cười cười, bưng đồ ăn vào bếp, một lúc sau thì em mang khay đồ ăn nóng hổi đi ra. Hai chúng tôi vừa ăn véo mũi nhau. Ăn sáng xong Lông Mi lại tiếp tục vẽ tranh, còn tôi thì nằm dài trên ghế tắm nắng, cầm một quyển “Bản đồ lịch sử thế giới”, đọc từ đoạn “thập tự quân Đông chinh”.
Lông Mi càng vẽ càng chăm chú, lần nào cũng ngồi một mạch đến chiều tối. Lâu lâu em cũng dừng lại nghỉ ngơi, ngắm nhìn bầu trời một lúc. Ly café đặt bên cạnh lúc nào cũng lạnh tanh. Tôi đã bấm thử, em có thói quen cứ hai mươi phút lại uống café một lần. Vì thế mỗi lần em đặt ly café xuống ta tôi liền vội vàng cầm lên cho vào lò vi sóng hâm lại, sau đó để vào chỗ cũ. Cứ lặp đi lặp lại như vậy, coi như cũng có việc để làm.
Trong thời gian ở nhà Lông Mi, tôi đến phòng tranh ba lần, hai lần đến sân vận động và một lần tới viện dưỡng lão.
Phòng tranh buôn bán không được thuận lợi lắm. Lần nào đến tôi cũng nghe thấy ông chủ ở đây thở ngắn than dài với Lông Mi, cảm khái thay cho cái thành phố nát bét bên trong nhưng nhìn bên ngoài lại rất văn hóa này, những người yêu tranh thực sự thì không mua nổi tranh, còn những người không yêu tranh lại mua tranh một cách mù quáng, những tác phẩm mới có chút ý nghĩa thì bán không nổi, còn những bức tranh sao chép vô hồn thì luôn được đón nhận nồng nhiệt. Cái gọi là phong cách của người họa sĩ dần dà đã trở thành truyền thuyết bị lãng quên. Ông chủ phòng tranh tốt bụng giới thiệu cho Lông Mi vài công việc khác, ví dụ như thiết kế bìa sách, thù lao rất cao, nói xong liền đưa cho em một quyển sách tương tự để xem thử, ngoài bìa vẽ một cô gái xinh đẹp hầu như không mặc gì, vung đao múa kiếm, ánh mắt khiêu khích. Lông Mi khẽ thở dài, mỉm cười lắc đầu.
Không khí ở sân bóng lại càng âm u hơn. Cổ động viên không ngồi hết nửa khán đài. Trong sân là những cầu thủ gọi là chuyên nghiệp đang ủ rũ đá một thứ bóng đá tẻ ngắt, bên ngoài sân là những cổ động viên trung thành trong gió rét căm căm. Sự đối lập rõ rệt ấy làm tôi cảm thấy vừa phẫn nộ lại vừa không biết phải làm sao. Có lần thậm chí còn chơi bán độ nữa, tôi thì không biết, nhưng có một cổ động viên đã hét lên như thế. Một người to gấp đôi tôi, trông như con hà mã đứng sừng sững trong gió rét, vẫy vẫy lá quốc kỳ đỏ rực như máu, hét lớn: “Bán độ cho mẹ chúng mày đi ! Bóng đá Trung Quốc chết rồi !”, vừa nói nước mắt anh ta vừa trào ra, làm tôi rất cảm động. Hết trận đấu, có rất nhiều người ném chai lọ xuống sân. Tôi cũng ném một cái. Thực ra là vốn định ném hai cái, nhưng lại ngại cô lao công phải vất vả, với lại nhỡ lần sau Lông Mi nhặt bóng đạp phải trượt chân thì sao ?
Viện dưỡng lão là nơi duy nhất khiến tôi có cảm giác ấm áp.
Bà lão vẫn ngồi dưới gốc cây quýt, nét mặt trơ như gỗ, nước miếng chảy ròng ròng. Chiếc radio bỏ túi của ông già bên cạnh vẫn tiếp tục hát dân ca. Bà lão này chỉ ăn có đậu phụ Nhật. Lông Mi bảo với tôi, bà muốn ăn thứ khác nhưng không nhai được, trong miệng chỉ còn lại đúng hai chiếc răng.
Lần nào chúng tôi cũng đi xe bus.
Đáng lẽ lái xe đi thì tiện hơn, nhưng Lông Mi không thích, em nói giống mọi người thì có gì không tốt, hình như em đang cố ý sửa chữa tật xấu cho tôi ? Đành phải chiều em. Có điều ngồi xe bus quen rồi cũng thấy không tệ, ít nhất là một cách hay để tiêu tốn thời gian. Con ngõ ở khu phố cổ, khoảng cách đến trung tâm thành phố tương đối lớn, đến viện dưỡng lão lại càng xa. Một chuấn đi phải mất hơn một tiếng đồng hồ.
Có lẽ tại tuyến đường này tương đối hẻo lánh nên đến giờ vẫn sử dụng một chiếc xe kiểu cũ. Xe rách tả tơi, chỗ nào cũng sứt sẹo, lái đi tới đâu là kêu xình xịch tới đó. Có lẽ động cơ đã quá cũ, cứ tăng tốc là có vấn đề, mỗi lần khởi động thường kêu “lạch cạch” rồi đung đưa đung đưa, sau đó đứng nguyên tại chỗ. Tiếp đó là tiếng chửi ngàn lần như một của tay lái xe. Cửa xe thường xuyên không đóng lại được, lái xe đành phải bò ra hí hoáy chỉnh lại van khí đóng mở cửa. Trên xe chỗ nào cũng hở tuếch hở toác, đặc biệt là lúc đứng ở cửa xe, thật sự chẳng khác gì ngồi xe ba bánh cả, cứ mỗi lần như thế là tôi lại nhớ đến chiếc xe ba bánh trong chuyến đi miền Tây, chẳng biết người ta đã sửa xong chưa nữa ?
Lông Mi không thích tranh chỗ ngồi, lần nào cũng đợi đến cuối cùng mới lên xe, nên lần nào cũng hết chỗ, đành phải đứng cạnh ghế của lái xe. Cứ thế, thành ra quen luôn tay lái xe,