
hích. Bà ta đã tham gia vụ bắt cóc ông Hallidy. Bà ta làm việc ở đây từ bao giờ?
– Năm tháng. Điều các ông vừa nói làm tôi kinh ngạc!
– Nhưng không phải không đúng sự thật. Những giấy tờ bị mất có dễ tìm không? Hay ngược lại? Bà có nghĩ là người lấy cắp phải là người biết rõ nơi chốn?
– Rõ ràng kỳ lạ là bọn ăn cắp biết nơi nào phải tìm. Ông cho rằng Inez…?
– Đã chỉ điểm cho kẻ cắp? Điều đó là chắc chắn! Nhưng cái vật quý mà chúng không mang di được là cái gì? Đồ trang sức?
Bà Olivier lắc đầu.
– Một thứ quý giá hơn thế?
Bà ta nhìn quanh, rồi cúi xuống chúng tôi, khẽ nói:
– Rađiom.
– Rađiom?
– Phải, tôi có riêng một số lượng rađiom, và còn mượn thêm một số nữa để có thể tiếp tục nghiên cứu. Dù số lượng tôi có trong tay là nhỏ, nó vẫn chiếm một phần đáng kể trong tổng số mà thế giới có, và đáng giá nhiều triệu phrăng.
– Rađiom để ở đâu?
– Trong một hộp bằng chì, đặt trong cùng két lớn. Bề ngoài, chiếc két có vẻ cổ lỗ, nhưng thực ra có có đủ các thiết bị hiện đại: an toàn tuyệt đối! Vì thế bọn cướp không mở được.
– Bà sẽ giữ số rađiom này trong bao lâu?
– Còn hai ngày nữa là tôi kết thúc các thí nghiệm.
Mắt Poirot sáng lên :
– Inez Véroneau có biết như thế không? Biết? Nếu vậy các ông bạn chúng ta sẽ quay trở lại. Bà đừng để lộ tôi với ai, tôi cam đoan sẽ bảo vệ rađiom cho bà. Chìa khoá cửa phòng thí nghiệm đi ra vườn, bà có không?
– Nó đây! Tôi giữ chiếc thứ hai cho tôi. Đây là chìa khoá chiếc cửa vườn đi ra lối đi ngăn giữa nhà tôi và nhà trước mặt.
– Xin cảm ơn bà. Tối nay bà đi nghỉ như thường lệ, không lo ngại gì, mọi việc để mặc tôi. Nhất là đừng nói gì với ai hết, kể cả với hai người phụ tá, cô Claude và ông Henri thì phải? Với họ càng không được nói.
Khi rời khỏi ngôi nhà, Poirot xoa tay thoả mãn.
Tôi hỏi:
– Ta làm gì bây giờ?
– Rời ngay Paris, đi sang Anh.
– Sao?
– Ta hãy chuẩn bị hành lý, đi ăn sáng rồi ra ga Bắc.
– Nhưng… còn rađiom?
– Tôi đã bảo là chúng mình đi sang Anh, chứ có bảo là tới nước Anh đâu Hastings, hãy suy nghĩ một lát. Nhất định chúng ta đang bị theo dõi, cần phải làm cho đối thủ tưởng ta đã đi. Để chúng tin thế thật ta phải lên tàu.
– Anh muốn nói là đến phút chót ta sẽ lộn lại?
– Không, kẻ thù chỉ yên tâm khi chúng nhìn thấy ta thực sự khởi hành.
– Nhưng tàu sẽ chạy một mạch không dừng, cho tới Calais?
– Nó sẽ dừng, nếu ta trả tiền.
– Trời ơi, Poirot, anh nghĩ rằng chỉ bỏ tiền mà bắt được tàu tốc hành dừng bánh?
– Anh bạn ơi, anh không bao giờ nhận thấy trong toa tàu có một cái dây gọi là Báo hiệu cấp cứu? Ai giật bậy không lý do sẽ bị phạt khoảng trăm phrăng gì đó.
– Vậy anh sẽ giật dây báo động?
– Không phải tôi! Mà là Pierre Cambeau, một người bạn. Trong khi anh ta phân bua với trưởng tàu và hành khách xúm xít chung quanh, thì chúng mình chuồn.
Kế hoạch của Poirot được thực hiện đúng như vậy. Pierre Combeau, một bạn nối khố của Poirot, rất quen thuộc với các mánh khoé của anh, chấp nhận tiếp tay. Dây báo động được kéo lúc tàu ra tới ngoại ô. Combeau vào vai rất thiện nghệ. Thừa lúc đó, Poirot và tôi xuống tàu không ai để ý. Điều đầu tiên phải làm là cải trang cẩn thận; những vật dụng cần thiết đã có trong chiếc vali nhỏ mang theo. Poirot và Hastings biến thành hai kẻ lang thang mặc áo lao động ngồi ăn trong một hàng quán tồi tàn.
Gần mười một giờ, chúng tôi có mặt trước nhà bà Olivier. Sau khi quan sát kỹ tứ phía, chúng tôi lẻn vào lối đi vắng lặng, chắc chắn không bị ai trông thấy. Poirot thì thầm bên tai tôi:
– Mình chưa chắc gặp chúng hôm nay. Có thể tối mai chúng mới tới? Nhưng chúng biết chắc là rađiom chỉ còn đó trong hai đêm nữa.
Chúng tôi khẽ khàng mở cửa vườn, bước vào thật êm.
Đột biến bất ngờ xảy ra. Trong nháy mắt, chúng tôi bị bao vây, bị nhét giẻ vào miệng và trói gô. Chúng có ít nhất mười tên, nên mọi sự chống cự là vô ích. Chúng tôi bị khiêng như hai cái bị vào nhà bà Olivier. Sao không vào nhà bên cạnh? Bọn khốn kiếp đã giở trò gì với nhà nữ bác học? Bọn chúng có chìa khóa mở phòng thí nghiệm, quẳng chúng tôi vào. Một tên đục vào két, cửa mở ngay. Thú thật là trong một thoáng, tôi lạnh ớn sống lưng, lo bị chúng bỏ vào trong đó để cho chết ngạt!
Nhưng, ồ lạ sao, két sắt không phải là két sắt! Bên trong cùng, có những bậc thang dẫn xuống hầm. Hai chúng tôi được khiêng xuống một phòng rộng dưới đất, và đặt vào một xó.
Một người đàn bà đứng đó, cao lớn, đường bệ, đeo mặt nạ bằng nhung đen. Sau một hiệu lệnh của con người bí ẩn đó, bọn kia rút lui. Chỉ còn hai chúng tôi với mụ ta. Không nghi ngờ gì nữa: chính là người đàn bà Pháp, “Số Ba” của Bộ Tứ vĩ đại.
Mụ cúi xuống bỏ giẻ ở miệng chúng tôi, nhưng vẫn để dây trói. Rồi đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi, mụ lột mặt nạ bằng một khoát tay nhanh chóng.
Đó là bà Olivier!
– Ngài Poirot – giọng mụ nhạo báng sâu cay – Ngài Poirot kỳ tài, ngài Poirot độc nhất vô nhị! Sáng hôm qua, tôi đã có lời cảnh báo ông, ông đã không thèm đếm xỉa, đã nghĩ rằng có thể dùng mưu mẹo chống đối chúng tôi. Bây giờ ông đã ở đây. Trong tay chúng tôi.
Một sự tàn ác lạnh lùng, trái hẳn với ánh mắt tinh nha