
người bị đánh thức đột ngột.
Rồi ra hiệu cho tôi đừng nói gì.
Người nó tiếp tục nói bằng giọng cực kỳ rõ ràng, với âm thanh máy móc, như đang đọc một bài học thuộc lòng:
– Li Chang-yen có thể coi là bộ óc của Bộ Tứ vĩ đại. Ông ta là động lực, là lãnh tụ tinh thần, là người chỉ huy, vì thế tôi gọi là Số Một. Số Hai ít khi được gọi bằng tên thật, mà được biểu hiện bằng một chữ S có hai gạch đè lên, ký hiệu của đồng đô la, hoặc bằng hai gạch và một ngôi sao. Vậy hiển nhiên đó là một người Mỹ, biểu tượng sức mạnh đồng tiền. Số Ba là một phụ nữ. Phụ nữ và là người Pháp. Điều đó không còn gì phải nghi ngờ. Một ca sĩ của đám trung lưu chăng, hay một ngôi sao của giới quý tộc, ai biết được? Về vấn đề này, không có chỉ dẫn cụ thể. Cuối cùng, Số Bốn…
Giọng chập chờn. Hắn ngừng nói.
Poirot cúi xuống, mắt nhìn mắt, kính để hắn tiếp tục:
– Gì nữa? Số Bốn…
Bầu không khí ngột ngạt đột nhiên đè nặng lên chúng tôi. Bộ mặt người nọ co giật một cách khủng khiếp. Poirot và tôi hồi hộp chờ đợi…
– Là Kẻ Tiêu Diệt… – Con người khốn khổ thở hắt ra trong nỗ lực cuối cùng, rồi ngất xỉu.
– Lạy Trời! – Poirot thốt lên. Vậy ra tôi đã đúng!
– Anh nghĩ rằng…
Poirot ngắt lời:
– Chuyển hắn ta lên giường tôi, trong phòng tôi. Tôi không thể chậm phút nào nữa, nếu không muốn nhỡ tàu. Không phải tôi muốn đi, ngược lại là đằng khác tôi sẵn sàng bỏ chuyến đi, nhưng tôi đã trót hứa. Hastings, mau!
Chúng tôi giao vị khách bí ẩn cho bà Pearson chăm sóc, chạy nhanh ra ga vừa kịp nhẩy lên đoàn tàu sắp chuyển bánh.
Poirot lúc yên lặng, lúc lại lắm lời. Có những lúc như chìm trong giấc mộng, anh nhìn đăm đăm ra ngoài cửa toa, vẻ không nghe thấy chút gì tôi nói. Rồi đột nhiên, anh tỉnh giấc, sôi nổi nói một thôi một hồi những lơi dặn dò, những mệnh lệnh ngắn gọn.
Qua ga Woking, có một giai đoạn êm ả. Thường lệ tàu không đỗ ga nào trước khi tới Southampton, nhưng bỗng nhiên có dấu hiệu nào đó buộc nó dừng lại.
– Trời ơi là trời – Poirot bỗng kêu lên – Sao mà tôi ngốc! Bây giờ tôi đã hiểu! Chính là các thiên thần hộ mệnh chúng ta đã khiến tàu dừng lại! Mau, Hastings, ta xuống!
Trong nháy mắt, anh đã mở cửa toa và nhẩy xuống đường tàu.
– Ném vali xuống và nhẩy!
Tôi nghe theo kịp thời, vì vừa đặt chân xuống đất thì đoàn tàu lại chuyển bánh. Tôi tức lộn ruột, hỏi:
– Nào, Poirot, bây giờ anh phải giải thích cho tôi biết anh định giở trò gì?
– Đơn giản là vì tôi đã hiểu?
– Nhưng tôi thì chưa hiểu.
– Hỡi anh bạn già Hastings, nhìn anh thì thấy không hẳn như thế. Tất cả những gì tôi yêu cầu anh lúc nãy, là xách hộ hai chiếc vali. Đống còn lại, tôi sẽ lo.
Viên Giám Thị Nhà Thương Điên
May sao, tàu dừng ở nơi gần ga, cạnh đó có một ga ra để chúng tôi đến thuê xe. Nửa giờ sau, chúng tôi đã bon bon trên đường trở lại London. Chỉ lúc đó, Poirot mới chịu đáp ứng sự tò mò của tôi.
– Anh không hiểu ư? Này nhé, lúc nãy, tôi cũng như anh thôi! Nhưng giờ thì tôi thấy rõ: chẳng qua là họ muốn gạt tôi sang một bên, thế thôi.
– Cái gì?
– Phải, họ đã muốn gạt Hercule Poirot vã đã hành động rất khôn khéo. Phương pháp tinh ranh khôn kể. Nơi mà họ muốn tôi đến đã được chọn kỹ lưỡng. Họ sợ tôi.
– Ai?
– Anh còn hỏi ư? Bọn Bốn Người, còn ai nữa! Bốn tên quái kiệt hợp sức với nhau để hành động ngoài vòng pháp luật: Tên người Tàu, người Mỹ, mụ người Pháp, và… tên kia… Hastings, cầu trời cho chúng ta về kịp!
– Anh cho rằng vị khách lạ của chúng ta đang gặp nguy hiểm?
– Tôi chắc chắn!
Bà Pearson kinh ngạc thấy chúng tôi lại trở về. Không kịp giải thích gì, chúng tôi hỏi bà xem có gì xảy ra. Không có gì đáng ngại. Không ai đến, và người bệnh vẫn yên tại chỗ.
Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi bước vào căn hộ. Poirot là người đầu tiền đi vào phòng ngủ. Giọng anh vang lên, đặc biệt xúc động:
– Hastings! Hắn chết rồi.
Tôi lao tới. Người lạ vẫn nằm trên giường như cũ nhưng không còn thở. Tôi chạy đi tìm một bác sĩ khác Ridgeway, vì biết Ridgeway lúc này chưa về nhà. Tôi tìm được ngay một ông vui lòng theo tôi về.
– Tội nghiệp, anh ta chết rồi! Chết thật rồi. Đây chắc là một người mà ông quan tâm?
– Vâng, đại khái vậy – Poirot đáp cho qua chuyện.
– Bác sĩ xem anh ta chết vì gì?
– Thật khó nói! Một kiểu ngất xỉu, tuy nhiên hình như có dấu hiệu của sự ngạt thở. Ở đây có dùng hơi đốt không?
– Không, chỉ dùng điện.
– Vả lại cả hai cửa sổ đều mở… Tôi ước chừng anh ta chết hai giờ trước đây. Các ông đi khai tử thôi.
Bác sĩ ra về, và Poirot đi gọi điện thoại mấy nơi. Cuối cùng tôi vô cùng ngạc nhiên nghe anh gọi điện cho thanh tra Japp, ông bạn cố tri, mời ông ta đến gặp.
Poirot vừa gọi xong thì bà Pearson chạy tới, mắt mở tròn to như cái đĩa:
– Dưới nhà có một người nói là do nhà thương điên Hanwell cử đến. Tôi mời ông ấy lên nhé?
Một người to, khoẻ, mặc đồng phục đàng hoàng, xuất hiện. Anh ta hồ hởi:
– Kính chào các ông. Có nhiều chứng cớ để nghĩ rằng một con chim của chúng tôi đang ở đây! Nó vừa bay đi tối qua.
– Nó đã từng ở đây – Poirot đáp bình tĩnh.
– Lại bay đi rồi?
– Chết rồi.
Người đó tỏ vẻ yên tâm.
– Thật ư? Tội nghiệp? Biết làm sao đư