
Huy Khang và lánh xa thằng đó …” bởi trong thâm tâm nàng hối hận đã đánh mất trinh tiết với Huy Phụng và giờ đây thù ghét anh ta, như một quá khứ chẳng lành. Hai năm học cuối cấp dù không thấy con mình thưa gửi gì, cũng không gọi Huy Khang là thằng hủi nhưng nàng vẫn yên tâm. Nàng biết cái bồng bột nhất thời của tuổi trẻ, nhất là tuổi học trò. Hồi đó nàng cũng có một bạn trai học lớp nhất (không hiểu sao hồi đó nàng biết thương con trai sớm thế!) hai đứa thường tách ra khỏi đám bạn để chơi riêng với nhau, cậu ta thường cho mình đồ chơi làm bằng lá dừa đan, bánh kẹo và chỉ mình làm toán trong lúc mình chỉ cho cậu ta bài tập làm văn. Cuối năm học đó gia đình cậu ta dọn đi nơi khác và những mơ mộng của nàng cũng dần dần tan biến như mây khói phù du.
Ngọc Thu quên rằng gần đây nàng nhận thấy khuôn mặt Đức Lai, em trai Mỹ Xuân rất giống cậu bạn học lớp nhất của nàng: cũng má lún đồng tiền, cũng mắt lá răm, cũng cằm chẻ mà con trai trời ạ. Mặt khác nàng cũng quên hay đúng hơn không ngờ rằng phả hệ chính trị của mấy đứa trẻ thường làm chúng không thể hòa nhập với các bạn học khác mà lập thành một nhóm riêng.
Năm đệ tứ cuối cấp đã tạo ra nhiều chuyển biến lớn trong bốn đứa trẻ. Một phần tích cực vì chúng đã trở nên đằm tính hơn như con thuyền lớn có trọng lượng dằn tàu, phần khác tiêu cực do bị ảnh hưởng của sự xuyên tạc hai môn giảng văn và lịch sử.
Một hôm Võ Tấm, một người bạn chiến đấu của Văn Cám và gia đình Mỹ Xuân thường đến nhà ve vản Mỹ Xuân vì biết Văn Cám đã vào rừng sẽ lâu lắm mới trở lại nếu không nói chẳng có ngày về. Hắn tình cờ cầm cuốn sách văn và sử của hai đứa nhỏ trong nhà lên coi thử, hắn tái mặt. Sau khi hội ý với Mỹ Xuân, Tối hôm đó Võ Tấm lại đến kêu thằng Mạnh Cường và Huy Khang lại nói:
“Dì Mỹ Xuân nhờ tao giáo huấn hai đứa mày. Tụi bay không được tin vào những gì trong sách văn và sách sử viết nghe không.”
“Sao vậy chú, không lẽ thầy dạy sai,” thằng Khang hỏi.
“Thầy dạy sai và sách viết tầm bậy. Này nhé Ngô Đình Diệm không phải là chí sĩ mà là thằng Diệm, muốn thay Tây vừa truyền đạo vừa duy trì chủ nghĩa thực dân tại xứ này, Nguyễn Thái Học không phải là liệt sĩ mà chỉ là một trí thức tiểu tư sản ngây thơ nhưng liều lĩnh v.v… còn Nhất Linh, Khái Hưng đều là những nhà văn phản động và ru ngủ v.v…”
Võ Tấm nói lâu lắm đến tận khuya, hai đứa tuy buồn ngủ cũng phải rán ngồi nghe. Sau cùng chúng phải hứa với Võ Tấm chỉ học đủ để làm bài chứ dứt khoát không tin. Hắn không hề băn khoăn đã đem bóng tối vào tâm hồn trong trắng của chúng. Vì từ ngày đó tâm hồn của chúng sẽ sống trong tâm trạng hoài nghi và bị giằng xé liên tục. Tin ai đây? Tin thầy giáo hay tin Võ Tấm. Và sau cùng để thoát khỏi sự giằng xé kéo dài ấy, các đứa trẻ kể cả con Dung và con Loan nghĩ mình phải một bề tin theo Võ Tấm và Mỹ Xuân và dồn nén niềm tin thầy giáo vào vô thức. Nhưng khi càng dồn nén lời thầy dạy, chúng càng cuồng tín với những lời của Võ Tấm để tìm lại sự bù trừ. Sự không trung thực với chính mình và với người khác đã nảy mầm trong chúng như cỏ lùng mà Võ Tấm đã gieo vãi vào mảnh ruộng của ông-chủ-lương-tâm lúc trời tăm tối. Thiết tưởng sự giáo dục đúng nghĩa và đem lại lợi ích lâu dài cho bản thân và cho xã hội không thể thiếu sự chính xác và trung thực. Đó là nền giáo dục dân tộc, dân chủ, nhân bản và khai phóng. Ngược lại là một giáo dục ngu dân vô cùng tai hại.
Tối hôm đó để tự khen thưởng mình đã lên lớp cho bọn trẻ đúng với đường lối của đảng, Võ Tấm định ở lại quyến rũ Mỹ Xuân vui vầy lạc thú. Nhưng cô này không đồng ý nhận hắn làm tình nhân hoặc hơn thế nữa làm chồng mặc dù cô mới tròn ba mươi tư tuổi và lửa tình còn nóng hổi . Vả lại gánh nặng con cô và hai con của Mỹ Đông để lại quả là không nhẹ chút nào. Cô không muốn làm hắn sa đà vào vòng tình cảm mà xao nhãng công tác nằm vùng. Cô muốn để thời gian thử thách lòng mình và cô nghĩ rằng một lời hứa hẹn mơ hồ nào đó cũng đủ trở thành một động lực tốt cho hắn trong công việc chung của đảng: Anh hãy hát cho em một- bài- ca mới đi như Văn Cám đã làm. Sau cùng hắn phải lủi thủi ra về trong đêm với một tâm hồn chứa chan niềm hy vọng cùng với nhiều ảo vọng.
Cuối năm đó, bốn đứa trẻ đi thi trung học đệ nhất cấp, Khánh Loan có số điểm hạng bình thứ, Khánh Dung và Mạnh Cường hạng thứ còn Huy Khang bị rớt và đau nhất là Khang thiếu nửa điểm của môn sử mà các môn khác không có dư để bù lại. Ba đứa kia sẽ ra thành phố học tiếp. Khánh Loan và Mạnh Cường vào trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Khánh Dung ra Huế học sư phạm tiểu học. Việc thi vào sư phạm không khó với cô, cô đã bắt đầu học thi ngay sau khi biết kết quả kỳ thi trung học, trừ những buổi chiều mà cô tìm sự thư giản khi đi gặp bạn bè cùng lớp.
Lần đó mẹ cô đi vắng vì từ cuối năm 1960 đến nay cứ sau hai tháng hoặc sớm hơn, mẹ cô lại vào cứ báo cáo tình hình ngoài làng xã với tư cách một giao liên đồng thời thăm cha cô năm ngày hoặc một tuần. Những ngày đó mẹ cô không ra chợ bán đồ khô, mẹ cô đi từ sáng sớm không phải qua đò vì đội công binh ở Đà Nẵng đã xây dựng một cầu sắt nối hai bờ của làng R