XtGem Forum catalog
Dòng Sông Oan Nghiệt

Dòng Sông Oan Nghiệt

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện dài tập

Lượt xem: 323414

Bình chọn: 10.00/10/341 lượt.

iển hỏi Thanh Phong.

“Vì trong ngành phản gián mình thấy nhiều khía cạnh ở mặt trái cuộc chiến này, nhất là sau cái chết của ông Diệm. Người Mỹ không chống cộng cho bằng họ bảo vệ quyền lợi của họ ở đây.” Thanh Phong uống hết một chung rượu rồi nói tiếp, “Nhưng quyền lợi của họ không chắc bao hàm quyền lợi của dân tộc mình. Nếu CS đáp ứng được điều kiện đó kể cả hy sinh quyền lợi của dân tộc, Mỹ sẽ bắt tay với CS. Chuyện CS độc tài đảng trị đối với Mỹ không đáng kể. Một số rất ít người Phật giáo đấu tranh cũng thấy được điều đó nhưng nhìn chung một phong trào bị giật dây như thế sẽ không làm được gì trái lại còn làm suy yếu Miền Nam nhất là từ khi CS đã thò móng vuốt vào phong trào. Lẽ ra trước đây Phật giáo phải đoàn kết cùng ông Diệm và bảo vệ ông ấy … nhưng thôi đó là sử mệnh mình không hiểu nổi.”

“Nhưng liệu Nga Sô và Trung Cộng có cho phép CSVN tự tiện “đi đêm” với Mỹ không vì sau cùng quyền lợi của hai anh đầu xỏ này sẽ ngày càng mâu thuẩn với quyền lợi của Mỹ?”

“Có thể lắm chứ, như một thằng chồng du côn có thể cho vợ mình làm đĩ và ăn ở qua đường với thằng tỉ phú, nghĩa là không những đi-đêm mà còn đi-ngày, nhưng đâu cho phép vợ hắn ăn đời ở kiếp hoặc cụ thể hơn giữ đúng lời hứa nào đó với thằng tỉ phú. Tình hình giả dối đó có thể tiếp tục như thế bao lâu chưa xảy ra tình huống một mất một còn giữa thằng chồng du côn và thằng tỉ phú tham lam và cũng đa mưu không kém. Nghĩa là…”

“Nghĩa là sao?”

“Nghĩa là Cho nàng làm đĩ chín phương, / Nhưng nàng phải giữ một phương Thiên triều”, CSVN có thể đàm phán với Mỹ, nhưng vẫn mãi là tay sai của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.”

Thanh Phong rít một hơi thuốc Rugby quân tiếp vụ, trong lúc Huỳnh Hiển cười thoải mái, chàng muốn lái câu chuyện sang đề tài khác nhẹ nhàng hơn:

“Đúng là ngôn ngữ của nhà thơ. Lúc này cậu có làm được bài thơ nào mới không?”

“À, nói về thơ thì mình mới viết được hai bài thơ ngắn, mình sẽ ngâm cho Hiển nghe theo giọng ngâm Tao đàn nhé. Bài thứ nhất Em về:

Em về cố quận xa xôi,

Nơi đây để lại chân trời hư không.

Mùa đông xuống núi lạnh lùng,

Mù sương che khuất một dòng sông trôi.

“Bài thứ hai là bài Mộng Du:

Dịu dàng cách biệt xa xăm

Em bên khung cửa lạnh tanh nỗi lòng.

Bâng khuâng nắng nhạt bâng khuâng,

Cung đàn sao để bụi chùng đường tơ.

Lòng anh dù có ước mơ,

Với em, không có bến bờ mộng du.

Tình yêu lạc lối sương mù,

Nhạn đi, lá rụng mùa thu lại về.

Khi tiếng ngân dài của từ cuối cùng nhỏ dần biến mất, Huỳnh Hiển nói:

“Hay lắm, thơ cậu mình còn hiểu được chứ những loại thơ văn tắc tị và hũ nút trên báo mình chịu thua không tài nào hiểu được. Có phải do một thứ chủ nghĩa văn học nào đó giống như trường phái lập thể hoặc siêu thực trong hội họa?”

“Theo mình nghĩ ở Việt nam không có một chủ nghĩa hay trường phái văn học nào cả. Chẳng qua chỉ là sự bắt chước về hình thức để tỏ mình thông thái, mà hình như là thông thái rởm. Về thơ hũ nút, mình nghĩ hẳn ít nhiều đã chịu ảnh hưởng tư tưởng “tánh không” của Phật giáo. Tư tưởng này tạo ra một từ trường lên văn học. Người ta đi vào cái “tâm” do đó chối bỏ thực tại, rồi tìm cái “không” của “tâm không” ấy do đó không dùng ngôn ngữ có ý nghĩa xã hội và cú pháp có trật tự. Vì thế sau cùng biện chứng viết-đọc chỉ còn một vế là viết mà thôi. Lẽ ra những ‘tác phẩm’ ấy không nên đăng báo nghĩa là công truyền mà phải bí truyền mới đúng, nếu nó có giá trị thật nào đó.”

“Vậy nó giống như một thiền sinh thấy thầy giơ một ngón tay khi thuyết pháp, cũng giơ một ngón tay lia lịa cho thiện tín nghe giảng lúc thầy vắng mặt và bị thầy bắt gặp chặt đứt ngón tay ấy đi…”

“Đúng, vì đó là ngón tay vô dụng và có hại chỉ có chân không trong khi ngón tay bí truyền của thầy là của người giác ngộ ngoài chân không còn có diệu hữu và chỉ hữu dụng cho kẻ đã được khai huệ nhãn không phải cho đám đông nhất là dám đông độc giả trên các báo vốn chưa được chuẩn bị gì.”

“Nghĩa là sao?” Huỳnh Hiển hỏi.

“Nghĩa là phần lớn văn nghệ hũ nút trên các báo Saigòn đều là chân-không-phi-diệu-hữu, nên khi đọc thấy, cậu có quyền chặt, chém, trảm như vị sư thầy thiền tông kia vậy. Phải chi những thứ văn chương ấy đạt được trình độ những bậc thầy ví dụ như Basô và Vương Duy trong thơ thiền mà mỗi khi đọc lên trong cái chân-không, người ta thấy ngay cái diệu-hữu. Vả lại trong thơ các vị ấy diệu hữu như có ưu thế hơn vì xem ra chân-không chỉ là cái nền, là bối cảnh.”

“Mình không ngờ cậu rất rành mạch về văn chương như thế.”

“Cậu quên mình có hai bằng cử nhân văn học và triết học ở Văn Khoa trước khi vào quân trường Thủ Đức sao.”

“À xin lỗi, mình quên bén điều đó. Nhưng giả sử cậu trở thành nhà văn chuyên nghiệp, cậu sẽ viết theo cách nào?”

“Mình có nghĩ đến điều đó. Trước hết chắc chắn không phải là cách viết sắc sắc không không của mấy cuồng sĩ Phật tử loạn ngộ, nhưng mình sẽ theo lối viết truyền thống của nhà nho khi họ xếp đặt các văn bản cổ theo thứ tự là Kinh – Sử – Tử – Truyện, và mình hiểu như thế này: Kinh nói về chân lý tối hậu; chân lý ấy phô diễn trong thời gian là Lịch Sử; suy nghĩ về triết học để lập thuyết