
nhà thơ, bọn họ người nào cũng chua như dấm ấy.
Lương Chí Văn hỏi:
– Em quen với bao nhiêu nhà văn, nhà thơ?
– Không quen người nào hết!
– Như vậy, làm sao em biết họ chua như dấm?
Tâm Nhụy hơi nhướng cao đôi chân mày:
– Em đoán như vậy. Vả lại, từ xưa đến nay, các nhà văn, nhà thơ, ông nào ông nấy đều nghèo rớt mồng tơi! Cái ông già họ Đỗ ấy, ở trong một cái nhà lá, có cái nóc nhà mà cũng giữ không được, để cho gió cuốn đi mất, lại còn rượt theo, rượt không kịp, lại còn khóc nữa chứ! Thật là “dởm” hết sức!
Lương Chí Văn hơi chau đôi chân mày, chàng cố nặn đầu suy nghĩ, cuối cùng không nhịn được, chàng cất tiếng hỏi:
– Có chuyện như vậy sao? Ông già họ Đỗ đó là ai vậy?
Tâm Nhụy nói một cách khoa trương:
– Nhà thơ Đỗ Phủ tên tuổi như thế, mà anh không biết à? Vậy mà anh cũng học Văn Khoa!
Lương Chí Văn mỉm cười:
– Ồ! Thì ra từ nãy giờ, em đang nói về các văn thi sĩ thời xưa! Em đang nói tới bài thơ “Bát nguyệt thu cao phong nộ hiệu, quyện ngã ốc thượng tam trùng mao!” đấy hả?
Tạm dịch:
– Tháng tám trời thu gió thổi cao,
Cuốn phăng mái lá để ta rầu!
– Đúng vậy, mái nhà lá bị cuốn đi mất thì mất chứ có sao đâu, ông ta còn rượt theo để làm gì? Đám con nít nghịch ngợm ôm đi mất đám lá lợp nhà của ông ta, ông lại kèm rèm: “Nam thôn quần đồng hí ngã lão vô lực, nhẫn năng đối diện vi đạo tặc, công nhiên bao mao nhập trúc khứ, thần tiêu thiệt táo hô bất đắc,…” thật là dởm, thật là dởm vô cùng! Cái ông già họ Đỗ ấy, vừa khó chịu, lại vừa nhỏ nhen! Lại không có phong độ chút nào! Ai cũng nói thơ của Đỗ Phủ hay, em thì lại không thích tí nào. Tụi con nít ôm đi của ông ta có một chút lá, ông ta đã mắng người ta là đạo tặc, thật là dởm! Thật là dởm! Cứ mỗi lần đọc tới bài thơ này, là em nổi giận ngay! Anh xem ông già họ Lý, làm thơ có khí phách biết mấy; “Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thượng thiên lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi!” Đọc lên nghe thật là dễ chịu. Rồi nào là “Cụ hoài dật hưng tráng tư phi, dục thượng thanh thiên lãm minh nguyệt!” thật là hào phóng vô cùng! Rồi thêm “Ngã bổn Sở cuồng nhân, cuồng ca tiếu Khổng Khâu!” nghe thật là hay! Em thích ông già họ Lý, ghét ông già họ Đỗ!
Tạm dịch:
– Bọn trẻ thôn Nam hiếp người già,
Dám ngang nhiên trộm trước mặt ta,
Ôm lá vào rừng như chỗ trống,
Kêu rát hơi tàn chẳng kẻ ra!
(thơ Đỗ Phủ)
– Thấy chăng dòng nước Hoàng Hà,
Chảy ra biển cả, nào ca ngày về!
(thơ Lý Bạch)
– Ngày tháng tiêu dao hồn vẫn tráng,
Muốn lên thiên thượng ngắm trăng vàng!
(thơ Lý Bạch)
– Ta vốn người cuồng nước Sở,
Cất giọng cuồng ca ngạo Khổng Khâu!
(thơ Lý Bạch)
(Khổng Khâu tức là Khổng Tử – chú thích của người dịch)
Lương Chí Văn nghiêng đầu qua nhìn nàng, chút nắng vàng còn sót lại của mặt trời, nhuộm đầy trên người, trên mặt nàng, làm cho toàn thân nàng như thể dát lên một lớp hoàng kim óng ánh. Nàng có đôi chân mày sậm, đôi mắt to, mái tóc nàng bị gió thổi rối bời bời, đôi gò má nàng đỏ hồng hồng, chiếc miệng nhỏ nhanh nhẹn di động, cả một câu nói tràng giang đại hải tuôn ra từ cửa miệng nàng như một dòng nước tuôn tuôn chảy, trơn tru như thác nước ào đổ từ trên đỉnh cao xuống. Chàng nhìn đến ngẩn ngơ.
Tâm Nhụy quăng đi vỏ ốc nhỏ trên tay mình, rồi lại cúi người xuống nhặt lên một cái khác. Đứng thẳng người lên, nàng chạm phải ánh mắt chàng. Ánh mắt chàng sâu thăm thẳm và sáng ngời ngời, mỗi lần nàng tiếp xúc với ánh mắt chàng, nàng đều cảm thấy trái tim mình đập mạnh một cách vô duyên cớ. Nàng cảm thấy trong ngũ quan của Lương Chí Văn, phần đặc biệt nhất là đôi mắt của chàng, chúng giống như hai miệng giếng sâu thăm thẳm, nàng không bao giờ biết được dưới đáy giếng đó chứa đựng những gì, thế nhưng lại có thể tự nhiên cảm nhận rằng, trong đó ngoại trừ cái dòng sinh mệnh cuồn cuộn chảy của chàng, còn chứa đựng rất nhiều những bảo vật vô cùng phong phú. Từ lúc quen anh em nhà họ Lương đến giờ, Tâm Nhụy cứ bị đôi mắt đó làm cho mê hoặc và thu hút. Bây giờ, nàng lại cảm nhận được cái sức mạnh làm cho trái tim nàng nhảy bình bịch đó.
Nàng trừng mắt nhìn Chí Văn, vì muốn che dấu đi sự dao động trong tận cùng tâm hồn mình, nàng cất tiếng nói, trong giọng nói chứa đầy sự khiêu chiến:
– Anh trừng mắt nhìn em làm chi vậy?… Em biết, anh không đồng ý với cái nhìn của em, mấy người học văn chương như anh, đều tôn sùng Đỗ Phủ! Trong bụng anh thế nào cũng mắng là em không biết gì hết, mà còn bày đặt lý luận, phát biểu cảm tưởng!
Lương Chí Văn nhìn nàng chăm chú, trong đầu mày đuôi mắt, chứa đầy nét dịu dàng, thành thật, thâm trầm. Sự dịu dàng đó làm cho trái tim nàng đập liên hồi:
– Không! Anh đang nghĩ, em là một cô gái rất kỳ lạ!
– Tại sao?
– Thấy em suốt ngày hi hi ha ha như thế, nhảy nhót nô đùa như thế, giống như một đứa trẻ vô tư, không biết gì hết, thế nhưng, em lại có thể đọc thơ của Lý Bạch và Đỗ Phủ một cách vô cùng lưu loát!
Gương mặt của Tâm Nhụy bừng đỏ lên:
– Ha! Điều này có gì là kỳ quái đâu! Anh quên là mẹ em học Văn Học Trung Quốc à! Từ khi còn bé tí, em chưa học chữ, đã theo mẹ em học thuộc lòng quyển “300 Bài Thơ Đường” rồi, sự nghiệp của ba càng