
ợc.”
Trong lòng tôi cũng trào dâng một tia mừng rỡ, mỉm cười khẽ than: “Nuôi con tới trăm tuổi thì có đến chín mươi chín năm lo lắng, làm gì có lúc nào thật sự yên tâm. Dù sau này Lung Nguyệt được gả chồng, ta cũng sẽ lo lắng không biết phò mã liệu có thật lòng thật dạ với nó không.” Thoáng suy nghĩ một chút, tôi lại hỏi Phương Nhược: “Có một việc ta luôn muốn hỏi cô cô. Đoan Phi là con gái của danh tướng Tề Bất Trì, vừa vào cung đã thành quý tần; Hoa Phi có chỗ dựa là Nhữ Nam Vương, mới tiến cung đã được phong làm Hoa Tần; Hoàng hậu năm xưa càng chẳng cần phải nói, là biểu tỷ của Hoàng thượng, cháu gái của Thái hậu, mới vào cung đã được tôn làm Nhàn Phi. Nhưng Xương Tần là con gái của Tấn Khang Quận chúa, có quan hệ thân thích với hoàng gia, tại sao khi vào cung lại chỉ có danh phận quý nhân, bây giờ có thai rồi cũng chỉ được phong làm tần?”
Phương Nhược thoáng suy nghĩ rồi trầm ngâm đáp: “Khi Hoàng thượng vừa mới đăng cơ, cả hậu cung và triều đình đều chưa ổn định, do đó cần phải lập mấy vị phi tử có địa vị thật cao. Bây giờ hậu cung về cơ bản đã đi vào quy củ, dù Xương Tần có đắc sủng đến mấy thì cũng phải tiến dần từng bước từ thấp đến cao. Vì việc này, khi tới thỉnh an Thái hậu, Tấn Khang Quận chúa đã từng không ít lần than vãn. Thế nhưng Tấn Khang Quận chúa cũng thật quá hồ đồ.” Phương Nhược lắc đầu, nói: “Bây giờ hậu cung là do Hoàng hậu chủ trì đại cuộc, thân thể Thái hậu không khỏe lắm, đâu còn có thể một lời chín đỉnh như năm xưa được.”
“Vậy quan hệ của Xương Tần với các phi tần ở hậu cung thế nào? Có đặc biệt thân thiết với ai không?”
“Dạ không.” Phương Nhược không chút nghĩ ngợi đáp ngay. “Xương Tần thân phận tôn quý, xưa nay luôn tự thị rất cao, không mấy khi qua lại với người khác, luôn độc lai độc vãng. Ngoài Hoàng hậu, Đoan Phi và Kính Phi ra, những người khác, cô ta đều không để ý tới.”
Tôi đưa tay khẽ vuốt chiếc cằm ngày một gầy guộc của mình, trầm giọng hỏi: “Vậy với An Lăng Dung thì sao?”
Phương Nhược chẳng buồn nhướng mày lên, nói: “Xương Tần mắt cao quá trán, sao thèm để ý đến An Dung hoa. An Dung hoa tuy có tước vị cao hơn Xương Tần nhưng cư xử với Xương Tần lại vô cùng cung kính, không dám ra vẻ kẻ cả chút nào.”
Tôi cười lạnh, nói: “An Lăng Dung vốn chẳng có căn cơ gì trong hậu cung, trước mặt Xương Tần tất nhiên phải nhún mình rồi. Có điều, chỉ cần Xương Tần và An Lăng Dung không chung một giuộc, ta cũng không có gì phải lo lắng nữa.”
Phương Nhược nghe thấy vậy thì trầm ngâm một lát, sau đó liền đứng dậy cáo từ: “Nương tử đã không có gì để lo lắng, như vậy nô tỳ cũng yên tâm hơn rồi.”
Giữa vùng núi vắng mênh mang, mùa đông thường tới rất sớm. Như lệ thường, mùa đông năm nay lại tới giữa những chiếc lá cây rơi lả tả. Huyền Thanh cứ cố định mỗi tháng đến thăm tôi một, hai lần, để tránh bị nghi ngờ, cũng để tránh cho tôi khỏi gặp khó khăn với những lời đồn thổi, y thường xuyên đợi tôi bên bờ sông dưới chân núi khi tôi ra ngoài giặt giũ hoặc đi cắt cỏ.
Ban đầu, thường là y bảo A Tấn đi nói với Hoán Bích thời gian y tới, sau đó đợi tôi ra ngoài gặp y. Dần dần, có lẽ là do hiểu nhau, tôi thường xuyên cảm giác được khi nào thì y sẽ tới, thế là bèn ra ngoài, những lúc đó, y đều chờ tôi sẵn bên bờ sông rồi.
Thỉnh thoảng tôi hỏi tới việc này, y chỉ cười, đáp: “Ta thường xuyên rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn đi lại loanh quanh bên bờ sông, đi lại nhiều rồi, tất nhiên biết được khi nào thì nương tử sẽ đi qua đây.” Nụ cười của y điềm đạm như làn gió, cắt ngang qua mặt sông, làm mặ nước nhẹ nhàng lay động. “Cũng có thể nói, ta thật sự thích chờ ở đây, nếu chờ được người mà mình muốn gặp thì thật sự là một niềm vui lớn vô cùng, còn có thể cảm thán sự diệu kỳ của duyên phận nữa.”
Tôi khẽ cười trước gió. “Nói thực lòng, trong chuyện tình cảm nam nữ, ta không hề tin vào duyên phận. Xưa nay ta luôn nghĩ chỉ những người yếu đuối, không chịu cố gắng tranh thủ mới dùng hai chữ duyên phận để làm cái cớ, khi nào thân mật thì nói là duyện phận sâu dày, còn khi muốn kết thúc mối tình thì nói là duyên phận đã hết.”
Huyền Thanh cười tủm tỉm, nói: “Nương tử cứ luôn khiến người ta phải sáng mắt lên như thế đấy, từng lời nói đều ẩn chứa chân lý sâu xa.”
“Vương gia quá khen rồi!” Tôi nhìn về phía con thuyền đang dập dềnh trên sóng nước đằng xa, khẽ nói: “Có lẽ tới ngày nào thật sự không còn đường để đi nữa, ta mới chịu nói rằng, duyên phận đã hết rồi.”
Huyền Thanh chậm rãi nói, khuôn mặt đầy vẻ ung dung, điềm đạm: “Nếu là trước đây, khi nương tử còn đắc ý, nương tử nói ra những lời này Thanh sẽ không hề cảm thấy lạ. Nhưng bây giờ nương tử đã theo Phật Tổ tu hành, chẳng lẽ vẫn chưa tin vào duyên phận sao?”
“Phải.” Tôi hơi chỉnh lại vạt áo, nơi nội tâm trong veo và bình lặng. “Dù đã vào nơi cửa Phật, ta vẫn kiên trì với lòng tin của mình. Huống chi Phật Pháp tinh thông, ta cũng chưa từng hiểu được hết, chỉ mong Phật Pháp có thể làm lòng người yên ổn mà thôi. Còn về cái thuyết duyên phận, ta cảm thấy việc là ở người, sum vầy hay ly tán đều như thế cả, không cần thiết phải lấy hai chữ duyên phận ra