
ng đó, mụ ta liền phù phép bắt người vợ chủ hiệu mê sảng, làm cả nhà rối tung lên, mụ ta liền đến nói với họ rằng mình chữa được bệnh ấy. Rồi mụ ta đốt ít vàng mã ngựa giấy cúng lễ. Quả nhiên kiến hiệu, thế là mụ đòi bọn đàn bà nhà ấy phải đưa tạ mười mấy lạng bạc, ai ngờ đức Phật có mắt, việc vỡ lở ra, ngay hôm ấy mụ ta vội vã về nhà, bỏ rơi một cái bọc lụa, người trong hiệu nhặt lên xem, thấy trong có nhiều hình nhân bằng giấy và bốn viên hương gì rất thơm, mọi người đang lấy, làm lạ thì con mụ già ấy quay lại tìm bọc lụa. Người ở đó liền bắt giữ và xét trong người thì thấy một cái hộp, trong có hai ma vương khắc bằng ngà voi; một trai một gái mình trần không mặc quần áo, và bảy cái kim thêu bôi son đỏ. Lập tức, họ bắt mụ giải đến phủ Cẩm Y. Ở đấy người ta xét hỏi thì biết được nhiều chuyện bí ẩn về các bà các cô nhà quan sang, vì thế họ báo tin cho trong doanh biết, và đến khám nhà mụ, tìm được nhiều tượng nặn bằng đất, và mấy hộp muộn hương 3. Trong gian nhà trống sau giường nằm, mụ ta treo một địa đèn có bảy ông sao, dưới đèn có mấy quân môi bằng rơm. Đứa thì đầu chét đai thần, đứa thì bụng đóng đinh, đứa thì cổ mang xiềng, trong tủ có vô số là hình nhân bằng giấy. Phía dưới có mấy cuốn sổ nhỏ, trong đó ghi đã làm phép cho nhà nào được linh nghiệm, cần đòi bao nhiêu tiền. Số tiền hương đèn người ta gởi đến không biết bao nhiêu mà kể.
Phượng Thư nói:
– Bệnh của chúng cháu nhất định là nó làm, cháu nhớ khi chúng cháu khỏi, con yêu già ấy qua bên nhà dì Triệu đòi tiền mấy lần; hễ gặp cháu là mặt nó sa sầm lại, hai mắt nó cứ như con mắt gà chọi ấy, mấy lần cháu cứ nghi hoặc, nhưng không tìm ra duyên cớ tại sao? Giờ nghe nói mới vỡ lẽ. Có điều cháu đứng ra trông coi việc nhà, cố nhiên có thể làm người ta oán ghét, người ta muốn tìm cách hại cháu, chứ chú Bảo thì có thù hằn gì với ai, mà họ cũng nỡ lòng độc ác như thế?
Giả mẫu nói:
– Biết đâu lại không phải vì ta yêu cháu Bảo, không yêu thằng Hoàn, mà để vạ cho các cháu như vậy.
Vương phu nhân nói:
– Con mụ khốn nạn ấy đã bị kết án nên không thể nào gọi nó đến đây đối chứng. Không đối chứng thì dì Triệu đời nào chịu nhận. Việc này là việc lớn, nếu để vỡ lở ra, tiếng tăm không hay lắm, chi bằng để nó làm nó chịu, thế nào rồi cũng có ngày phải ra.
– Chị nói cũng phải, đã không có đối chứng thì không thể nào làm ra lẽ, chỉ có đức Phật là nhìn thấy rõ thôi, chị em chúng nó giờ đây nào có kém ai? Thôi việc đã qua rồi, cháu Phượng cũng đừng nhắc đến nữa, hôm nay mẹ con cháu ăn cơm chiều ở đây rồi hãy về.
Giả mẫu bảo Uyên Ương và Hổ Phách đi gọi dọn cơm.
Phượng Thư vội vàng cười nói:
– Tại sao bà phải bận lòng thế?
Vương phu nhân cũng cười.
Thấy mấy người đàn bà đứng chực bên ngoài, Phượng Thư vội bảo bọn a hoàn nhỏ đi gọi cơm, và nói:
– Ta và bà Hai đều ăn cơm với cụ ở đây.
Đang nói thì thấy Ngọc Xuyến chạy đến thưa với Vương phu nhân:
– Ông lớn muốn tìm thứ gì, mời bà hầu cơm cụ xong rồi về tìm hộ.
Giả mẫu nói:
– Chị đi về thôi, chắc anh ấy có việc gì cần đấy.
Vương phu nhân vâng lời, để Phượng Thư ở lại hầu, còn mình lui về. Đến phòng, Vương phu nhân gặp Giả Chính, nói chuyện suông mấy câu và tìm ra đồ vật. Giả Chính liền hỏi:
– Cháu Nghênh Xuân về rồi à? Nó ở nhà họ Tôn ra sao?
– Cháu Nghênh Xuân cứ khóc khóc mếu mếu, nói là chồng ngang ngược quá.
Rồi bà ta kể lại những điều Nghênh Xuân đã nói cho Giả Chính nghe. Giả Chính thở dài nới:
– Ta đã biết không phải là nơi xứng đáng, khốn nỗi ông Cả cứ nhận lời, ta cũng không biết làm thế nào, thế là con Nghênh Xuân đành chịu khổ mà thôi.
Nó mới về làm dâu, chỉ mong sau này vợ chồng nó ăn ở với nhau khá hơn là được.
Nói đoạn, Vương phu nhân lại phì cười. Giả Chính nói:
– Cười gì?
– Tôi cười thằng Bảo sáng nay đến đây, nói toàn là chuyện trẻ con.
– Nó nói gì?
Vương phu nhân vừa cười vừa kể lại những lời của Bảo Ngọc. Giả Chính cũng không nhịn được cười liền nói:
– Nhắc đến thằng Bảo Ngọc, tôi lại nhớ ra một việc. Thằng này cứ để mãi trong vườn, thực không nên, con gái hư thân, còn là người của nhà khác, chứ con trai hư thân thì quan hệ không phải nhỏ, hôm trước có người đến nói với tôi về một ông thầy học. Ông này học vấn và phẩm chất đều tốt, cũng là người phương Nam, nhưng tôi nghĩ, thầy học người phương Nam tính tình lại quá ư hiền lành, trẻ con nhà ta đang sống nơi đô thị, đứa nào đứa nấy, đều nghịch ngỗ phá trời, mồm mép lém lỉnh, cái gì lấp liếm được là thế nào cũng lấp liếm cho kỳ được, lại cứng đầu cứng cổ làm cho thầy học ngày ngày phải chiều như chiều vong, không dám nói nặng lời, rút cục chẳng ăn thua gì, uổng công vô ích. Vì thế các cụ trước không chịu mời thầy ở ngoài, chỉ chọn người trong họ vừa có tuổi vừa có học vấn để dạy. Giờ đây cụ Nho học vấn tuy chỉ bình thường nhưng còn trị nổi bọn chúng, không đến nỗi nuông chiều chúng quá. Tôi nghĩ cứ để thằng Bảo lêu lổng mãi không nên, chi bằng lại bắt nó vào trường nhà học tập như cũ.
– Ông nói rất phải, từ khi ông nhậm chức ở ngoài, nó cứ ốm luôn, thành ra bỏ bê trễ mất mấy năm; bây giờ lại vào trường nhà ôn tập thì rất tốt.
Gi