
hương. Vương phu nhân bảo:
– Thôi đi về đọc sách đi! Giờ hồn đấy, ngày mai ta sẽ hỏi mày.
Bảo Ngọc quay về, vừa đi vừa tính: “Không biết đứa nào lại mách lẻo thế? Việc này không ai biết cả, sao mẹ mình lại nói đúng thế?”
Về đến nhà, thấy Tập Nhân đương ngồi sụt sùi nhỏ lệ. Thấy người hầu hạng nhất bị đuổi đi, lẽ nào chẳng đau lòng. Bảo Ngọc cũng nằm vật xuống giường, khóc òa lên. Biết người khác còn có thể bỏ qua, chứ Tình Văn bị đuổi là một việc to tát, Tập Nhân liền khuyên bảo:
– Cậu khóc cũng chẳng ăn thua gì đâu. Hãy ngồi dậy, tôi nói cho mà nghe: Tình Văn giờ đã khỏi bệnh rồi, nếu chị ấy về nhà thì lại được tĩnh dưỡng mấy hôm. Cậu không rời được chị ấy, thì chờ khi bà nguôi giận, cậu lại sang xin với cụ cho gọi nó về, cũng chẳng lấy gì làm khó. Chẳng qua bà ngẫu nhiên nghe thấy người ngoài nói nhảm, nổi giận thế thôi.
– Tôi vẫn không biết chị Tình Văn đã phạm cái tội tày trời gì?
– Bà chỉ nghĩ chị ấy đẹp quá, thế nào cũng có tính lẳng lợ Bà biết rõ những cô đẹp như người trong tranh, chắc không bao giờ đứng đắn, nên có ý ghét. Chứ cục mịch như chúng tôi lại hóa hay.
– Thôi, không nói chuyện ấy nữa. Những câu chúng ta nói đùa riêng với nhau, không có người ngoài nào lộ chuyện, tại sao bà cũng biết. Thế mới lạ chứ!
– Cậu thì có kiêng nể cái gì, lúc cao hứng lên, cậu cứ nói bừa, không kể gì có người hay không có người. Có lúc tôi đưa mắt, ra hiệu, bị người ta trông thấy, mà cậu vẫn chẳng biết gì cả.
– Tại sao mọi người có lỗi, bà đều biết cả, chỉ không nói đến chị, chị Xạ Nguyệt và chị Thu Văn?
Tập Nhân nghe vậy, chột dạ, cúi đầu một lúc, không biết trả lời ra sao, rồi cười nói:
– Đúng đấy, về phần chúng tôi cũng có lúc nô đùa, không biết giữ ý tứ, sao bà lại quên? Chắc còn có việc khác, để làm xong rồi sẽ xử đến chúng tôi cũng chưa biết chừng.
– Chị có tiếng là người hiền lành nhất, hai chị kia lại được chị rèn cặp, dạy dỗ thì còn có chỗ nào đáng phạt nữa? Chỉ có cô Phương Quan còn bé mà lại sắc sảo quá, chắc cũng có lúc cậy thế chèn người ta, làm cho họ ghét. Con Tư thì cũng tại tôi làm hại nó. Bắt đầu từ cái ngày tôi cãi nhau với chị, rồi gọi nó đến sai vặt. Người ta thấy tôi đối với nó tử tế, lại cho nó là chực tranh giành địa vị, cũng vì thế nên mới xảy ra việc hôm naỵ Chị Tình Văn cũng như các chị đều là người của cụ cho sang đây ở từ khi còn bé, tuy chị ta đẹp hơn người thực, nhưng cũng chẳng cản trở gì. Chỉ có cái là chị ấy tính tình sắc sảo, ăn nói hoạt bát, nhưng cũng không thấy chị ấy có lỗi với một người nào! Đúng như chị nói, chắc là chị ấy đẹp quá, vì cái đẹp mà mang lụy đấy thôi!
Nói xong lại khóc.
Tập Nhân ngẫm nghĩ câu ấy, cho là Bảo Ngọc có ý ngờ mình, nên không tiện khuyên nữa, liền thở dài:
– Chỉ có trời biết thôi! Bây giờ cậu chưa tra ra người nào mách lẻo, cứ khóc mãi cũng vô ích.
Bảo Ngọc cười nhạt:
– Vì tôi nghĩ, chị ấy quen được chiều chuộng từ thuở bé, chưa từng bị hắt hủi bao giờ. Bây giờ khác gì một chậu hoa lan mới nẩy mầm non đã bị quẳng ra chuồng lợn. Người thì đương ốm nặng, trong bụng lại chồng thêm bực tức. Chị ấy không còn bố mẹ thân yêu, chỉ có người anh con cô con cậu là một tên nát rượu, liệu chuyến này có chịu đựng được năm bữa nửa tháng hay không? Liệu mình còn được trông thấy mặt chị ấy nữa không?
Nói xong, Bảo Ngọc càng thấy đau xót, Tập Nhân cười nói:
– Cậu thật đúng như câu: “Quan châu có quyền đốt đuốc, trăm họ không được thắp đèn”. Chúng tôi tình cờ nói nhỏ một câu, cậu đã cho là nói gở, giờ cậu nguyền rủa chị ấy thì được à?
– Không phải tôi phũ miệng rủa người đâu, mùa xuân năm nay đã có triệu chứng rồi đấy.
– Triệu chứng gì?
– Cây hải đường ở dưới thềm đương tươi tốt thế, tự nhiên chết mất một nửa, tôi biết ngay là có điềm gở, quả nhiên ứng ngay vào chị ấy.
– Tôi không muốn nói, nhưng lại không nhịn được. Cậu thực lẩm cẩm như bà già. Câu ấy có đúng là lời nói của người biết chữ như cậu không?
Bảo Ngọc thở dài nói:
– Các chị thì biết gì? Không những là cỏ cây. Tất cả những vật gì có tình có lý ở trên đời cũng như người vậy, gặp được tri kỷ, sẽ rất linh nghiệm. Nếu lấy việc lớn ra làm ví dụ, thì giống như cây cối trước miếu và cỏ thi trước mộ Khổng Tử, cây bách trước đền ông Gia Cát, cây tùng trước mộ Ông Nhạc Vũ Mục. Đó là cái khí đường đường chính chính, nghìn năm không mòn. Đời loạn thì nó héo đi, đời thịnh thì nó tươi lên. Trong một nghìn năm cũng có mấy lần héo đi sống lại. Thế không phải là triệu chứng ư? Nếu lấy việc nhỏ ra làm ví dụ thì giống như cây mộc Thược dược ở đình Trầm Hương; cây tương tư ở lầu Đoan Chính của Dương Qúy Phi; cỏ trường thanh ở trên mộ Vương Chiêu Quân, không lẽ cũng không có linh nghiệm hay sao? Vì thế cây hải đường này cũng ứng vào người đấy.
Nghe một tràng những câu ngớ ngẩn đáng cười lại đáng buồn, Tập Nhân cười nói:
– Cậu càng nói làm cho tôi bực mình! Chị Tình Văn là hạng người gì mà phải tốn công suy nghĩ, dám đem so sánh với những danh nhân thuở xưa! Còn một lẽ nữa, chị ấy có đẹp cũng không thể vượt lên trên tôi được. Tức như cây hải đường cũng phải ứng vào tôi trước, chưa đến lượt chị ấy. Chắc l