
Uất Trì Cung nói:
– Ta có hỏi thăm rõ là hai ông bà khó. Song có lòng lành bố thí, nên dưới Âm phủ có cất thế bạc vàng cho. Bởi Thiên tử sống dậy nói: “Có mượn kho vàng bạc của Tướng Lương dưới Âm phủ, có Thôi Phán quan bảo cử rõ ràng. Nên nay tính đủ mà trả cho, sao so cũng phải lãnh đi đặng ta về tâu lại”.
Hai vợ chồng lạy mãi mà nói rằng:
– Nếu tôi lãnh của này thì tôi mau chết. Tuy tôi có đốt giấy tiền vàng bạc, ấy là U Minh, Bệ Hạ nói mượn duới Âm phủ thì sự quả quyết rồi, ngặt tôi không lấy tích chi làm cớ, giết thì tôi chịu chết, chớ tôi dám lãnh ở đâu .
Uất Trì Cung không biết làm sao, phải về cụ sớ cho vua rõ.
Vua Thái Tô xem sớ khen rằng:
– Thiệt là kẻ hiền lành .
Nói rồi tuyền cho Uất Trì Cung đem bạc ấy mà lập một kiểng chùa cho hai ông bà nhờ phước, trong chùa dọn hai bàn thờ sống, cũng như trả bạc kia.
Uất Trì Cung vâng lệnh, mua năm mươi mẫu đất mướn thợ cất chùa, gọi là chùa Tướng quốc. Bên tả lên cốt Tướng công (Tướng Lương) mày đậm mắt to như tạc. Bên hữu lên cốt Trương Thị, da đen áo rách, như thường. Chùa cao không biết mấy tầng li vòng lên trên khu ốc. Có dựng bia đá có khắc chữ là Uất Trì Cung coi làm, hoàn thành về tấu cho vua hay.
Vua Thái Tôn mừng phán rằng:
– Các quan vâng lệnh Trẫm, treo bản thỉnh thầy chùa đặng làm chay cho cô hồn siêu rỗi .
Các nơi lựa thầy chùa dâng tới đông lắm.
Vua Thái Tôn truyền cho quan Thái Sư Phó Duyệt (Duợt) chọn một thầy xứng đáng làm thầy cả mà đứng đàng chay.
Phó Duyệt dâng sớ can rằng:
– Phép của nước Tây vức không biết tôi chúa cha con. Bầy ra sáu đàng luân hồi, ba điều hành tội là: Ðao nuớc lửa đặng hoài dụ người ngu nhắc tội kiếp xưa, hưởng phước đời khác. Miệng đọc lảnh liếu, cho khỏi thế khỏi xâu. Huống chi sống lâu thác yểu là lẽ tự nhiên, nhân đức hành hình tại nơi vua chúa. Nay kẻ tục nói rằng: Phật định, lầm biết chừng nào? Huống chi đời tam hoàng ngũ đế, đạo Phật chưa truyền, thì vua sáng tôi ngay trị nước lâu dài lắm. Kể từ vua Minh đế nhà Hán mới có Phật ra đời, vua Minh đế lạp chùa mà không thấy phước. Bệ Hạ còn noi dấu làm chi?
Vua Thái Tôn xem sớ rồi, đưa cho các quan coi mà thưa nghị.
Có quan Tể tướng Tiêu Võ tâu rằng:
– Ðạo Phật bày từ nhà Hớn, khuên lành răn dữ cũng là có ít cho triều đình lẽ nào dám bỏ, Phật cũng là thánh. Người chê thánh, là người vô phép, xin làm tọi mà răn đời .
Phó Duyệt cải lẽ rằng:
– Lễ là thờ cha mẹ và thờ vua. Ðạo Phật bỏ cha mẹ mà đi tu, không biết tới vua chúa. Trọng người dân hơn cha mẹ. Ông không phải là thầy sãi, sao lại trọng cái đạo không chúa không cha, ấy là ông bất trung bất hiếu đó .
Tiêu Võ chắp tay mà nói:
– Mấy cửa ngục để dành cho những kẻ như vầy .
Vua Thái Tôn đòi quan Thái Bộc là Trương Ðào Nguyên, và quan Trung Thơ là Trương sĩ Hoàn mà hỏi:
– Trẫm lập chùa bố thí có đáng hay không?
Hai ông ấy tâu rằng:
– Ðạo Phật là thanh tịnh hiền lành cho nên vua Võ Ðế nhà Châu chia ba đạo trượng trong đời là: đạo Nho, đạo Phật, đạo Tiên gọi là tam giáo. Ðại Huệ thiền sư linh hiễn, Ngũ Tổ và Ðạt Ma hiện hình. Từ xưa đến nay tam giáo là trọng hơn hết, lẽ nào dám bỏ đi!
Vua Thái Tôn mừng rằng:
– Hai khanh tâu hiệp ý trẫm! Ai còn nói nữa thì làm tội chẳng tha .
Mới sai Ngụy Trưng, Tiêu Võ, Trương Ðào Nguyên, đi chọn một thầy cả, ba ông quan vâng lệnh về.
Ðến bữa sau ba ông chọn lựa trong các sãi, có một Hòa Thượng tài đức song toàn, Hòa Thượng ấy là ai? Là ông Phật Kim Thiền bởi đi chầu trễ mà phải đọa. Quan Âm cho xuống đầu thai. Mới lọt lòng mẹ bị thả trôi sông, gặp Pháp Minh vớt lên mướn vú nuôi tại chùa, ăn chay hồi dứt sữa. Ðến mười tám tuổi thế độ (cạo đầu) quy y. Ông bà cha mẹ ăn lộc Triều đình, mà Hòa Thượng Huyền Trang chẳng mến công danh, vui theo Phật pháp. Tài cao đức trọng kinh sách gồm thông.
Bữa sau vua lâm triều, ba ông dắt Huyền Trang vào đền đồng lạy, ba ông tâu rằng: – Tôi vâng lệnh chọn các sãi, có một hòa thượng này tài đức hơn hết là Trần Huyền Trang .
Vua Thái Tôn ngẫm nghĩ hồi lâu, phán hỏi rằng:
– Phải là con quan học sĩ Trần Quang Nhụy hay không?
Huyền Trang lạy vua mà tâu rằng:
– Tôi đó .
Vua Thái Tôn khen rằng:
– Lựa thiệt chẳng lầm .
Liền phong Huyền Trang làm chức:
– Thiên hạ Ðại xiển Ðô tăng Cang . Nghĩa là: Thầy cả các sãi trong thiên hạ.
Huyền Trang lạy tạ ơn.
Vua ban cho cái áo Cà sa dệt ngũ sắc và mũ tì lư. Truyền đến chùa Hóa sinh chọn ngày tốt mà giảng kinh chứng đám.
Huyền Trang lạy tạ nữa, vua cho đưa đến chùa Hóa sinh. Ðếm đặng một ngàn hai trăm thầy chùa, chia ra ba nhà mà ở. Sửa sang xong xả, chọn ngày vào đám là ngày Quý Mão nhằm mồng ba tháng chín năm Kỉ Tỵ, niên hiệu Trinh Quang thứ mười ba ra hạn từ ngày vào đám đến ngày rồi là bảy cái thất, bốn mươi chín bữa, tụng kinh và thí thực cho siêu độ cô hồn.
Ngày mồng ba vua Thái Tôn và các quan tựu đến chùa Hóa sinh thắp hương lạy Phật.
Thầy Huyền Trang dắt các sãi ra lạy mừng vua. Rồi dâng văn tế cô hồn.
Vua Thái Tôn xem rõ văn tế như vầy:
Ðức thánh minh mông,
Cửa thiền lặng lẽ
Sống trên đời tính qủy hung hăng,
Thác xuống đất hồn ma quạnh quẽ
Nhớ các linh xưa
M