ng như trong triều chủ trương gây hấn giữa hai tộc Việt-Hán. Nhưng điều này hơi khó. Cần phải có sự tương thuận giữa hai nước Tống-Việt. Bây giờ trẫm hứa với người, trong khi bên Đại-Việt gây hấn thì sao?
Tự-Mai bật cười:
- Kể từ khi vua Đế-Minh chia thiên hạ làm hai. Nam cho tộc Việt. Bắc cho tộc Hán. Có bao giờ tộc Việt hướng lên Bắc gây rối không?
- Được rồi. Trẫm tin người, điều kiện thứ nhì là gì?
- Mở cửa biên giới, cho dân hai nước tự do thông thương, hầu kết chặt tình Hán-Việt đều cùng một tổ. Như vậy tình thân hai tộc sẽ được nối tiếp, sau này khó có thể xẩy ra chiến tranh.
- Thiếu hiệp thông minh thực. Hai đề nghị đều hợp ý trẫm. Giá thiếu hiệp làm vua Đại-Việt, thì Hán-Việt sẽ hoà thuận đời đời. Còn đề nghị thứ ba?
- Công nhận quốc hiệu Đại-Việt, cũng như niên hiệu của Đại-Việt hoàng đế.
- Khi trẫm đã muốn Hoa-Việt sống trong tình anh em, dĩ nhiên phải có điều này. Nào bây giờ người hãy chứng minh rằng Lý thái phi sinh ra trẫm đã.
- Được, tôi vì bệ hạ mà nói.
Ghi chú
Sử chép vua Tống Nhân-Tông (Thiên-Thánh) là một minh quân cực nhân từ, thương yêu dân như con đỏ. Trong thời gian đầu mới lên ngôi (1018-1027) nhà vua còn niên thiếu, Lưu thái hậu buông rèm thính chính, nắm mọi quyền hành. Bà chủ trương mở rộng Nam-thùy, nên trọng dụng bọn hiếu chiến. Khi nhà vua nắm thực quyền, ông cách chức từ tể tướng trở xuống đến bọn quan Nam-trấn hơn ba trăm người, rồi thực thi chính sách ôn hòa với các nước lân bang. Cho nên trong triều không có gian thần, ngoài biên không chiến tranh, dân chúng sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Dân Tống sung sướng chỉ thua dân Việt dưới triều Thuận-Thiên. Nhưng các sử gia đời sau không biết tính nhân từ đó của nhà vua do đâu mà có. Chỉ độc giả Anh-linh thần võ tộc Việt biết mà thôi.
Nhà vua rót một chén sâm thang để trước mặt Tự-Mai:
- Thiếu hiệp uống đi cho tỉnh. Tiếc quá.
Tự-Mai chĩa ngón tay vào chén sâm thang. Nước vọt lên thành một tia nhỏ rơi trúng họng nó. Nó uống rồi nói:
- Đa tạ bệ hạ. Bệ hạ tiếc gì vậy?
- Ta tiếc vì người là người Việt. Nếu người là người Hán, ta sẽ để người ngồi ở toà Bình-chương cùng ta chung lo sao cho dân hạnh phúc.
Tự-Mai nắm lấy tay nhà vua cảm động:
- Tự cổ đa số vua chúa chỉ lo gái đẹp, sung sướng, làm những điều khiến cho dân đau khổ. Trọn đời, tôi mới thấy hai vị hoàng đế lúc nào cũng chỉ lo cho dân hạnh phúc. Bệ hạ là một. Sau này nếu bệ hạ cần, tôi luôn ở cạnh bệ hạ, nhưng tôi không muốn làm quan. À, hiện bệ hạ đang bị bó tay.
- Người vừa nói hai vị hoàng đế chỉ nghĩ đến dân. Người thứ nhì là ai?
- Thuận-Thiên hoàng đế của Đại-Việt.
- Trẫm nghe nói Lý Công-Uẩn cướp ngôi của ấu quân, hiện y làm cho trăm họ Đại-Việt điêu linh vô cùng. Sao thiếu hiệp lại so sánh trẫm với y?
Tự-Mai lắc đầu:
- Biên thần của bệ hạ tâu láo đấy. Sự thực như thế này.
Rồi nó thuật lại những điều ác độc kinh khủng của vua Lê Ngọa-triều. Sau khi vua Ngọa-triều chết, anh hùng Đại-Việt tôn Lý Công-Uẩn lên làm vua như thế nào. Trong mười bẩy năm qua, xá thuế ra sao, dùng đức cai trị dân khiến đạo lý hưng thịnh hơn bao giờ cả. Cuối cùng đại hội Lộc-hà vừa qua lại tôn ngài lên làm vua vĩnh viễn.
Nhà vua nghe Tự-Mai thuật, ông cau mặt, rồi thình lình đập tay xuống bàn:
- Trẫm phải cách chức hết bọn biên thần mới được. Trời ơi, từ trước đến giờ chúng coi trẫm như con nít vậy.
- Không phải mình bệ hạ lầm, mà Định-vương cũng lầm nữa.
Nó thuật lại việc Định-vương bị biên thần tâu lầm, sang Đại-Việt hống hách ra sao, sau biết sự thực, vương hối hận, rồi kết thân với Khai-Quốc vương.
Nhà vua hỏi:
- Thiếu hiệp tiếp cho.
Tự-Mai hắng giọng rồi nói:
- Tự cổ, đàn bà Hán hay Việt đều giống nhau. Ai cũng cho rằng mình thương yêu con mình nhất, nên chỉ mượn vú nuôi sữa. Còn dạy đỗ, quản chế, bao giờ cũng tự làm lấy. Nếu Lưu hậu sinh bệ hạ với công chúa Huệ-Nhu. Tại sao người không nuôi dạy, mà giao bệ hạ cho Dương thục phi, giao Huệ-Nhu cho Lý thần phi.
- Trẫm cũng nhận thấy cái bất thường dó.
- Không đàn bà nào có thể xa con được. Thế sao Lưu hậu giao bệ hạ với công chúa Huệ-Nhu cho hai vị phi tần nuôi, cũng được đi. Nhưng mỗi tháng chỉ hai lần, lệnh cho hai phi đem bệ hạ với công chúa chầu Lưu hậu một lần? Bệ hạ thử xét lại mà xem, các bà phi của tiên đế, sinh con xong tuyển vú nuôi. Nhưng lúc nào cũng để con ở cạnh. Có đâu bắt con xa cách, tháng thăm đôi lần? Được làm mẹ, dạy con, nuôi con là điều hạnh phúc nhất của đàn bà. Cớ sao Lưu hậu bỏ phế không hưởng?
- Ừ nhỉ, bây giờ trẫm mới chú ý đến điều đó.
- Thôi, tôi nói thực hết. Thái-hậu là người của Hồng-thiết giáo.
- Điều này trẫm biết rồi.
- Bệ hạ chỉ biết một mà không biết hai.
- Còn gì nữa?
- Thế nguồn gốc Thái-hậu ra sao? Bệ hạ thử nghĩ xem, bất cứ con người ta phiêu bạt đến đâu cũng biết rõ nguốn gốc mình: Cha mẹ là ai, họ hàng, quê quán. Tại sao Thái-hậu lại không biết mình họ gì, phải lấy họ Lưu của chủ?
Để cho nhà vua suy nghĩ một lát, Tự-Mai tiếp:
- Bệ hạ có biết việc những cao thủ Hồng-thiết giáo thường dùng thiếu nữ trẻ làm cây thuốc luyện công không?
- Trẫm được Khu-mật viện