XtGem Forum catalog
Bàn Về Kiếm Hiệp

Bàn Về Kiếm Hiệp

Tác giả: Huỳnh Ngọc Chiến

Thể loại: Truyện kiếm hiệp

Lượt xem: 321721

Bình chọn: 8.00/10/172 lượt.

ởng được triển khai hơi nặng nề. Ngòi bút nhà tư tưởng truyền

thống đã lấn át phong cách hào hoa của nhà nghệ sĩ, người đọc có cảm

tưởng đang nghe giảng đạo. Chỉ đến Tiếu ngạo giang hồ, thì tư tưởng đó

mới thực sự được khai mở một cách phiêu bồng bằng đường kiếm vô chiêu

của gã tưu đồ Lệnh Hồ Xung. Kim Dung đã triển khai những nếp gấp ẩn mật

trong tư tưởng phương Đông qua phong cách riêng biệt của tiểu thuyết võ

hiệp.

Theo truyền thống phương Đông, phàm những gì có thành thì phải có hoại

[3'> bởi vì vạn vật đều được cấu tạo từ chổ bất toàn của nó [4'> Do đó,

mọi chiêu kiếm dù cao thâm đén đâu, hễ đã thành chiêu thức thì ắt phải

có chổ sơ hở để địch nhân phản kích. "Nếu ta đánh không theo chiêu thức

nào cả thì địch nhân phá vào đâu ? ". Câu hỏi đơn giản của Phong Thanh

Dương như một tiếng hét của Lâm Tế, như cây gậy của Đức Sơn [5 '>khai ngộ ngay cho anh chàng lãng tư Lệnh Hồ Xung. Từ bước ngoặt đó, y đã đánh

bại ngay Điền Bá Quang, người mà chỉ vài giờ trước đó đã đánh cho y thua liểng xiểng.

Từ chổ được khai tâm điểm nhã n, đường kiếm vô chiêu tuyệt diệu của Độc

Cô Cầu Bại [6'> cứ theo gã tửu đồ Lệnh Hồ Xung phiêu bồng khắp giang hồ,

mà không hề bại trận. Ngay dưới núi Võ Đương, khi vô tình so gươm với

tay đệ nhất kiếm thuât đương thời là Xung Hư đạo trưởng -chưởng môn phái Võ Đương-, lúc bị khốn trong những vòng kiếm quang liên miên bất tận,

Lệnh Hồ Xung vẫn nhớ đến nguyên lí có thành phải có họai, nên đã đánh

ngay vào làn kiếm quang dày đặc và đã thủ thắng bằng một chiêu tối hậu.

Một lần nữa tư tưởng Vô thắng Hữu lại được khẳng định qua đường kiếm

thượng thừa. °ở đây ta thấy thấp thóang tư tưởng "Vô danh thiên địa chi

thủy" [7'> của Đạo đức kinh.

Kiếm pháp vô chiêu của Độc Cô Cầu Bại vốn không có khuôn khổ nhất định,

nó cứ linh động tùy cảm mà ứng nên nó có thể thâu hóa tất cả kíếm pháp

trong thiên hạ vào một mối để biến thành kiếm pháp của chính nó, thế thì thử hỏi có kiếm pháp nào trong đời địch lại nỗi ? Ngày xưa khi Độc Cô

Cầu Bại hành hiệp, ông chỉ ước được bại trận một lần mà không được !

Kiếm pháp đó sẽ cực kì phức tạp, khó hiểu đối với những kẻ uyên bác đầy

ắp kiến thức, nhưng lại dễ dàng tiếp cận với những trái tim thuần phác

hồn nhiên, không câu nệ cố chấp, những đầu óc không mang sẵn những định

kiến cứng nhắc, những tâm hồn đã đạt mức "hư kì tâm" (giữ lòng trống

rỗng) của Lã o Tử. Kiếm pháp vô chiêu cũng là một bức tranh minh họa

sinh động về tư tưởng "Nhất dĩ quán chi" của Khổng Tử.

Một số người không quen nếp suy tư phương Đông sẽ cho rằng nếu như thế

thì hóa ra kẻ không biết gì về võ công, đánh không theo một chiêu thức

qui củ nào lại hơn cả những tay cao thủ ! Đây là một kiểu ngộ nhận khá

phổ biến. Vô ở đây không phải là không biết gì theo suy tư thông thường

mà là cái Vô đã vượt trên cái Hữu. Vô đươc ví như cái hangrỗng chứa được tất cả nhưng vẫn trống không. Trong truyền thống Phật giáo tiểu thừa,

người đạt quả vị tối cao là A la hán còn được gọi là bậc Vô học. Từ "Vô" trong vô chiêu nên được hiểu theo nghiã đó hoặc hiểu theo nghĩa tính

Không (sunyata) trong hệ thống tư tưởng Bát Nhã Phật giáo. Triết học

Đông phương, đặc biệt là Phật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh

hội của lí trí. Người ta không tin rằng lí trí có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tich tổng hợp của nó. Chưa bao giờ, trong

tác phẩm Kim Dung, kẻ uyên bác khổ luyện lại là người đạt đến trình độ

tối cao trong võ học. Hình ảnh những đại cao thủ như Tô Tinh Hà, Cưu Ma

Trí, Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác [9'>... là những biểu tượng thất bại của

tham vọng bách khoa, của lí trí trước thềm võ học. Bởi vì sự tích lũy

không thâu hóa sáng tạo chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa. Họ chỉ

đăng đường chứ không thể nào nhập thất. [10'> Chỗ tận diệu của võ thuật

vẫn như một huyền án lơ lững thách đố trí thông minh của con người. Càng thông minh, càng tích chứa kiến thức mà không có được một đầu mối nhất

dĩ qúan thấu suốt tất cả để dung hòa thành một mối thì dễ dàng rơi vào

trạng thái tẩu hỏa nhập ma [11'> tinh thần. Trái lại những tâm hồn thuần

phác và tĩnh lặng như vị sư vô danh quét rác trong Tàng kinh các chùa

Thiếu Lâm [12'> mới đạt đến chổ tận diệu đó. Đó là những triết gia phương Đông chân chính và vô danh đang hiển thị chữ đạo trong võ thuật

giữa các công việc bình nhật thường ngày. Trong Hiệp khách hành [13'>,

tất cả đại cao thủ đệ nhất đương thời đều điên đầu không thể lĩnh hội

nổi võ công đề trên bức vách tại Long Mộc đảo, kể cả Long Mộc đảo chủ,

hai nhân vật mà võ công đã đi vào huyền thọai, ấy thế mà gã ăn xin đôn

hậu Thạch Phá Thiên vốn dốt đặc cán mai lại thấu trịệt hoàn toàn. Ở đây, dường như Kim Dung muốn nhắc ta nhớ lại hình ảnh thiền sư Huệ Năng, Tổ

thứ sáu của lịch sư Thiền tông Trung Quốc, người đốn củi không học hành

lại được sư phụ truyền y bát để kế tiếp tông phái thay vì truyền cho

Thần Tú, là một vị cao tăng uyên bác [14'>. Cái diệu lí của võ thuật, của đạo đã vuợt quá ngôn ngữ văn tự mà đi thẳng vào tâm hồn những ngưòi

đồng điệu theo lẽ đồng