
- Thế nào ? Mày nghĩ chúng ta có nên về không ?
- Về chứ ! Ở đây hoài với họ thế nào được !
- Tao cũng nghĩ thế.
- Tao không ưa đàn bà.
- Vậy thì cùng về.
Mãn Hà Chí ngẩng lên nhìn trời:
- Bây giờ đã định xong, tao nóng ruột muốn về quá ! Nhớ Oa Tử lạ ! Kìa,
đám mây kìa ! Mày xem có giống mặt nàng nhìn ngang không ? Lại cái dạng
mây chung quanh nữa, không khác gì những lọn tóc của Oa Tử khi mới gội
đầu xong.
Mãn Hà Chí vừa nói vừa dậm chân chỉ trỏ.
Thạch Kinh Tử mãi nhìn con ngựa hoang vừa thả đương lững thững đằng xa.
Hắn thương ngựa hoang như thương những kẻ lang bạt, khi không ai cần đến chúng nữa, chúng lặng lẽ bỏ đi, không đòi hỏi một điều gì.
A Kế Mỹ gọi hai người về ăn cơm chiều. Thạch Kinh Tử đề nghị chạy thi.
Cả hai ra sức ganh nhau trên con đường nhỏ về nhà, hắt bụi bắn tung lên
phủ trắng những ngọn cây thấp.
Sau bữa cơm, Ôkô ngồi trang điểm rất kỹ. Đôi mắt nàng trong gương đăm
đăm nhìn Thạch Kinh Tử. Hắn thấy rõ và đột nhiên nhớ lại mùi hương nồng
ấm ở tóc nàng tỏa ra trong đêm trước.
Mãn Hà Chí với hũ rượu trên kệ, san ra bình nhỏ và ngồi xuống chiếu cạnh Thạch Kinh Tử, tự nhiên như chủ nhà. Vì là đêm cuối nên cả ba quây quần bên khay rượu uống say túy lúy. Ôkô lè nhè:
- Uống cạn hết đi. Để lại cho chuột vầy hay sao ?
- Ờ ... Ờ ... hay để sâu bọ làm hư cũng thế !
Ôkô dựa đầu vào vai Mãn Hà Chí, ngả nghiêng cười cợt làm Thạch Kinh Tử đôi lúc khó chịu quay mặt nhìn đi nơi khác.
Ôkô say quá, Mãn Hà Chí phải dìu nàng về phòng. Đến cửa, nàng quay lại hướng về phía Thạch Kinh Tử, hờn dỗi nói mát:
- Ngủ nhà ngoài nghe ! Thích ngủ một mình mà !
Thạch Kinh Tử không đáp, gục xuống chiếu rượu. Hắn say rồi, mà đêm cũng đã khuya lắm.
oo Khi Thạch Kinh Tử tỉnh dậy, trời đã sáng rõ. Hắn mở mắt, linh cảm một điều gì khác lạ. Hình như mọi người đã bỏ đi cả.
Bọc quần áo của mẹ con Ôkô xếp cạnh vách hôm qua, giờ không còn nữa. Hắn gọi tên mọi người, không có tiếng trả lời. Cửa trước, hiên sau, vựa
củi, tất cả đều vắng lặng.
Căn nhà hoang phế có một cái gì lạnh lẽo, cô đơn, buồn khó tả.
Một chiếc lược màu đỏ son nằm chơ vơ trên nền đất, cạnh cái máng nước tre.
Thạch Kinh Tử nhặt chiếc lược lên, mùi hương thoang thoảng tỏa ra làm hắn sực nhớ đến cái đêm Ôkô vào phòng hắn. Hắn nghĩ thầm:
“Mãn Hà Chí thua vì cái này đây !”.
Và tự nhiên ở đâu cơn phẫn nộ kéo đến, không dằn được:
- Đồ súc vật ! Mày lừa dối Oa Tử như vậy không đủ sao !
Vất chiếc lược xuống đất, hắn lấy chân đi lên, giận đến phát khóc chẳng
phải vì hắn, mà vì thương cho Oa Tử, hắn mường tượng, đang đợi ở làng,
một lòng son sắt. Vào đầu thế kỷ thứ , con đường Mimasaka là một trục lộ giao thông lớn.
Khởi đầu từ Tatsimo thuộc tỉnh Harima, đường này chạy dài, uốn khúc như
bất tận, lên đèo xuống dốc, hun hút qua vùng Vạn Thiên Sơn đồi núi chập
chùng và song song với hàng cột mốc phân ranh hai tỉnh Mimasaka và
Harima.
Khách du đứng trên đèo cao, nhìn thấy thung lũng sông Aida dưới chân và ở triền sông, một ngôi làng. Đấy là làng Miyamoto.
Miyamoto thực ra chẳng phải là một làng mà chỉ là tên một khu tập hợp nhiều sơn thôn nhỏ rải rác:
mấy căn nhà cất dọc theo bờ sông, một hai cái chòi vắt vẻo trên sườn
đồi, vài trang trại cũ giữa cánh đồng bỏ hoang lâu ngày vì sỏi đá không
trồng cấy được.
Tuy vậy, dân cư cũng khá đông, đủ mang danh là một làng, theo tiêu chuẩn thời ấy.
Cho đến mãi mấy năm trước đây, đầu mục Yết Mân vẫn cư ngụ Ở vùng này
trong một tòa lâu đài ngay trên thượng lưu sông Aida, cách bờ sông
khoảng non một dặm. Phía bắc lại có mỏ bạc, bây giờ đã cạn, nhưng trước
kia trong những năm thịnh vượng, quy tụ rất nhiều công nhân từ phương xa tới.
Khách thương từ Totori đi Hemeji, muốn dùng sơn đạo đến Bizen, tất phải
theo đại lộ Mimasaka và nghỉ chân tại Miyamoto. Do đấy, Miyamoto là chỗ
giao lưu của hai sơn lộ chính thời đó và vì thế mang một sắc thái riêng
do dân từ nhiều nơi khác đem đến.
Làng có quán ăn, tiệm bán quần áo, và cả một trà thất nhỏ với mấy cô ca
kỹ ngực thoa phấn trắng theo thời trang quẩn quanh trước cửa như bầy dơi trắng quanh tổ.
Đấy là Miyamoto, nơi mà hai gã thanh niên nông phu Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí đã từ biệt để lên đường theo đuổi công danh.
Oa Tử ngồi mơ mộng nhìn những nóc nhà rải rác dưới chân. Nước da tươi
mát, tóc đen mượt, chân tay nhỏ nhắn, dáng người thanh tú, Oa Tử có một
vẻ đẹp siêu thoát, khác với những thôn nữ hồng hào, vạm vỡ đang làm công việc đồng áng dưới kia. Ngồi đăm chiêu trên bậc đá cổng chùa Tiểu Sơn,
trông nàng như một pho tượng bằng sứ toàn mỹ.
Oa Tử bị bỏ rơi từ khi còn trứng nước, được chùa đem về nuôi nên có dáng cách khiêm cung ít thấy ở những thiếu nữ mười sáu. Ngay từ nhỏ, nàng đã không được tiếp xúc nhiều với những trẻ khác cùng trang lứa. Vì sống
cách biệt với thế giới bên ngoài nên trong ánh mắt nàng có một vẻ gì
trang nghiêm trầm mặc, làm cho những thanh niên ưa nếp sống phóng túng
ngại không dám gần. Năm trước, nghe lời sư cụ, nàng đã nhận lời cầu hôn
của Mãn Hà Chí. Nhưng ít lâu sau, vị hôn phu của nàng cùng với Thạch
Kinh Tử