
hư kẻ chỉ, chưa một vết rạn. Vậy mà Lận lại chưa bao giờ có nổi
lấy một tháng, chứ chưa nói một năm, ngồi vào lớp quản lý kinh tế, hành chính
hay chính trị chính em nào, thì làm gì có hiểu biết về quá trình dẫn đến một
hành vi có thể bị bắt, và trước khi bắt người thì phải tiến hành những bước
nào. Bơi Lận không biết thuộc nhóm máu gì mà hễ rời vợ ra mươi ngày, thậm chí
vài hôm đã không sao chịu nổi, nên cứ nói đến đi học tập trung trên trường đảng
tỉnh, thậm chí ngay tại trường đảng huyện, là Lận lo kế hoãn binh. Thuật biết
tính em trai nên làm việc gì cũng kèm cặp riết róng, bảo ban đến nơi đến chốn
trước khi em ra đến ngoài. Lận được cái nhiệt tình, bảo làm gì là hùng hục như
trâu húc mả, nhưng hữu dũng vô mưu, lại nông cạn xốc nổi, nhiều khi làm xong
mới biết là dại. Được cái bảo là nghe ngay. Nói ra được câu ấy cũng là người
biết nghĩ. Thuật nhìn ông em trai đứng đầu hợp tác xã nông nghiệp toàn xã vừa
thấy cảm thông, vừa thấy thương thương, tồi tội cho thằng em vừa làm một việc
nông nổi, nếu không muốn nói là dại dột. Giây lát, Thuật dịu dàng bảo Lận:
- Thôi, chú đi thả mấy người ấy ra đi. Riêng ông Tinh và tay
Điền, chú mời bằng được họ vào phòng chú bên hợp tác xã uống nước. Chờ tôi ra,
cả tôi và chú có lời xin lỗi họ vì chưa hiểu rõ thực hư ra sao, mới chỉ nghe
mỗi em trai ông Hưởng và một anh ở huyện đến nói, đã vội cho bảo vệ xuống bắt
người là thiếu sót. Mong hai đồng chí về nói với các anh, các bác dưới làng
thông cảm cho. Thế nhá, chú đi đi. Mềm nắn, rắn buông, phải biết lựa chiều cư
xử, chứ cứ lúc nào, với ai cũng nắn nắn, bóp bóp là có bữa vỡ mặt đấy!
Ông anh trưởng tộc, lại làm chủ tịch xã, bảo chẳng lẽ không
đi. Chứ đi thì đi, Lận vẫn thấy ấm ức. Dẫu là việc bắt người vô cớ, ừ thì cứ
cho là vô cớ, vì chưa có lệnh đã bắt người ta đi, thì những người ấy cũng chưa
hẳn hoàn toàn không có lỗi. Thế nên, thả ra thì được, chứ lại còn mời vào văn
phòng để cả chủ tịch, chủ nhiệm đến xin lỗi và mong được sự thông cảm thì nghe
nó thế nào ấy. Quả là thái độ của Thuật đối với vụ xô xát giữa tổ cờ đỏ làng
Phương Lưu và những người đi trên hai chiếc xe đến chở lợn ở trại, có cái gì
như một sự nhún nhường, sờ sợ, khác với bản tính cứng rắn, máy móc, đầy uy
quyền của một người đứng đầu chẳng những trong gia tộc, dòng họ mà còn trong cả
xã. Lận mơ màng nghĩ thế, nhưng cái đầu củ chuối của Lận lại không cắt nghĩa
được nguyên do của việc ông anh có thái độ mềm mỏng với những người Phương Lun,
trong đó có Điền, không hiểu sao lại lạc vào đấy, mà Lận cho bắt giam, là nghĩa
làm sao. Nhưng ông anh bảo đi thả thì cứ phải đi đã. Thả rồi thì mời bằng được
ông Tinh và Điền sang phòng hợp tác xã uống nước và có lời xin lỗi họ, thì cứ
phải mời bằng được. Có gì khuất tất, có gì chưa hiểu thì đành hiểu sau vậy.
Nhưng Lận không phải chờ hiểu sau, lại càng không phải tự
mình tìm hiểu lấy. Ngay tối hôm ấy, nhà Lận vừa cơm nước xong đã thấy: “Bác cả
sang chơi đấy!”. Ấy là Hoan, vợ Lận, đang đứng ngoài cửa chuồng lợn cho con lợn
nái mới đẻ mười hai con ăn thêm bát cháo lấy sữa đêm cho con bú, chợt nhìn thấy
Thuật lững thững đi khuất sau bụi tre ngoài cổng, vội chạy vào bảo chồng, giục
con dọn mâm bát đi, nhanh lên, bác cả sang chơi đấy.
Nhà này cũng như nhà mẹ con bà Bao, chị dâu, và cả bà cô Ngấn, tiếng lấy chồng làm chủ tịch huyện, nhưng gia phép “quyền huynh thế phụ” từ đời ông, đời cha vẫn được giữ nghiêm. Dẫu Thuật không phải là con trai cả trong nhà, nhưng ông cả là chồng bà Bao, bố thằng Bính, đã hy sinh ngoài mặt trận. Thuật là thứ, giờ phải đứng chân trưởng tộc, không những nối dõi tông đường thờ cúng tiên tổ, giữ nghiêm gia phép, mà còn phải bảo ban các em, các cháu biết đường ăn ở với họ tộc, xóm làng. Mà họ Phạm Khắc làng Phương Trì cũng là một họ lớn, chỉ riêng số suất đóng giỗ tổ hàng năm đã trên dưới hai trăm. Chưa nói đến người họ này đi sinh cơ lập nghiệp mãi Hải Dương, Hà Nội, Quảng Ninh, rồi tận Sài Gòn, Vũng Tàu. Ở đâu làm ăn được, ở đấy thấy người họ Phạm Khắc. Dẫu gia tộc nhà Thuật không là ngành cả trong họ, nhưng cụ cả Bộ, trưởng họ này, hồi cải cách ruộng đất bị quy địa chủ, đưa ra đấu tố mấy đêm ngoài sân đình. Năm ấy cụ cả Bộ bảy mươi ba tuổi, đúng vào tuổi hạn, lại người đang yếu sẵn, bị giam hàng tháng trời. Lại đúng vào năm đói kém, nên vợ con cũng chẳng còn gì tiếp tế cho cụ ngoài gói cơm nắm, củ khoai luộc. Cụ cả cùng mấy người bị quy là địa chủ trong xã bị đưa ra giam ngoài trại lẻ chân đê, nay gọi là làng Phương Lưu, nơi có trại chăn nuôi lợn nổi tiếng, mới xảy ra xô xát giữa tổ cờ đỏ với ông phó chủ tịch cùng hai chiếc xe của huyện xuống bắt lợn. Mấy ngày đầu vợ con còn hạt gạo, củ khoai thì ngày hai bữa vẫn mang cơm khoai ra cho cụ. Ít ngày sau những thứ ấy hết, thì vợ con cũng hết thứ tiếp tế. Nhưng đấu tố thì không thể vì thế mà hết, vẫn cứ đúng lịch đội sắp xếp, cụ cả Bộ được đưa về đình làng để nông dân đấu tố. Trong một đêm mưa phùn giá rét, trước mấy trăm con người đứng ngồi lố nhố chật sân đình, cụ cả đang đứng co ro trong vành móng ngựa bỗng k