
ằng bé chăn dê vung roi đuổi con dê đi chỗ khác. Nắng chiều nhuốm đỏ khuôn mặt nó. Bóng nó đồ dài trên mặt đất. Nó cất giọng trong như ngọc mà hát rằng:
- Năm một chín ba bảy, Nhật tiến vào Trung nguyên. Chiếm Lư Cầu Kiều. Chiếm Sơn Hải Quan. Đường sắt kéo dài đến Tế Nam. Giặc bắn pháo, Bát lộ quân bắn súng trường, ngắm thật chuẩn, bắn chết thằng sĩ quan, hai chân duỗi thẳng, nó về Tây Thiên!... Khúc hát chưa dứt, Tư Mã Khố đã ứa nước mắt, anh bưng mặt ngồi thụp trên cầu...
Sau đó anh xuống sông rửa sạch ngấn nước mắt trên mặt, gột sạch bùn đất trên người, chậm rãi đi theo bờ đê nở đầy hoa dại. Tiếng chim kêu lúc hoàng hôn nghe buồn thảm, các màu sắc nhòa vào nhau, mùi hoa dại hoặc nồng hoặc thoang thoảng khiến Tư Mã Khố như mê đi, mùi cỏ dại hoặc đắng hoặc cay khiến anh tỉnh lại. Đất trời mênh mang, nghìn năm chỉ một chớp mắt, anh nghĩ mà đau! Mặt đê, trên lối đi con trạch, rất nhiều châu chấu đang đẻ trứng, cắm bụng trong đất, người dưới thẳng, đau đớn trong hạnh phúc. Tư Mã Khố ngồi xuống lôi một con châu chấu lên, ngắm cái vòi lủng lẳng như một đoạn ruột của nó, lập tức nhớ lại thời niên thiếu của anh, lập tức nhớ lại mối tình đầu với một cô gái má trắng môi son. Anh thích nhất là cọ mũi trên bầu vú của cô ta...
Thôn trấn đã ở trước mặt, khói bếp lan tỏa, hơi người nồng đậm. Anh ngắt một bông cúc vàng đưa lên mũi ngủi, gạt bỏ những tạp niệm riêng tư, chấn những ý đồ ngang trái, nhằm hướng cổng xép phía nam nhà mình đàng hoàng tới. Đám dân quân nấp phía sau cổng xép nhảy ra, lên đạn rộp rộp, quát to:
- Đứng lại, không được vào!
Tư Mã Khố điềm nhiên như không:
- Đây là nhà của tôi?
Lính gác sững người, quẳng súng la rầm lên:
- Tư Mã Khố dây này, Tư Mã Khố đây này! Tư Mã Khố khinh bỉ nhìn bọn dân quân, cằn nhằn:
- Sao lại bỏ chạy, đúng là...!
Anh ta vừa ngửi bông hoa vàng vừa bước vào cổng xép miệng hát một đoạn trong bài ca chống Nhật, phong thái ung dung, nhưng anh bị sa xuống cái hố đào sẵn để bẫy anh ngay trước cổng. Một đám đông binh sĩ của Cục Công an huyện ngày đêm phục kích ở vạt ruộng trước cổng ùa tới, mấy chục họng súng đen ngòm cùng chĩa xuống Tư Mã Khố ở dưới hố. Một mũi chông cắm dưới hố xuyên suốt qua bàn chân của anh. Anh đau đến nỗi miệng méo xệch, chửi:
- Đồ con nít, chẳng ra thể thống gì cả! Ta về tự thú mà lại dùng bẫy lợn rừng để bẫy ta?
Trưởng phòng trinh sát Cục Công an kéo Tư Mã Khố từ dưới hố lên, còng tay anh lại.
Tư Mã Khố nói:
- Thả hết những người nhà Thượng Quan ra! Tội ai nấy chịu!
Nghe nói để đáp ứng yêu cầu bức thiết của nhân dân vùng đông bắc Cao Mật, phiên tòa xử Tư Mã Khố sẽ thiết lập tại địa điểm Bác-bít chiếu phim lần đầu. Đây chính là sân phơi của nhà Tư Mã, trên sân vẫn còn cái bục đất, dấu vết thời Lỗ Lập Nhân làm cải cách ruộng đất. Để đón tiếp Tư Mã Khố, cán bộ khu huy động dân quân có vũ trang đốt đuốc làm suốt đêm đào mấy trăm khối đất, đập một cái đài cao hơn mặt đê sông Thuồng Luồng, đào một rãnh sâu hình chữ U ở mặt trước và hai bên đài, rãnh đầy nước do bên ngoài thấm vào. Cán bộ khu còn trích từ quĩ đặc biệt một khoản tiền làm tương đương với một tấn gạo, đi ba mươi cây số mua về hai xe chiếu cói dày, màu vàng rơm, dụng trước đài một căn nhà quây bốn bên bằng chiếu cói dán đầy những tấm áp phích lời lẽ khi thì nghiến răng nghiến lợi, khi thì vui sướng điên cuồng. Số chiếu còn thừa thì trải trên nền đài và treo kín bốn ta luy. Trưởng khu tháp tùng huyện trưởng đến xem xét địa điểm phiên tòa. Họ đứng trên đài cao, chân giẫm lên mặt chiếu trơn nhẵn, gió lạnh từ phía sông thổi phồng ống tay áo và ống quần như những khúc dồi lợn khổng lồ. Huyện trưởng xoa xoa cái mũi đỏ tía, lớn tiếng hỏi trưởng khu đứng phía sau:
- Kiệt tác của ai đây?
Trưởng khu chưa rõ huyện trưởng hỏi như vậy là có ý châm biếm hay là lời khen, bèn nói úp mở:
- Tôi tham gia thiết kế, còn chủ yếu là anh ta thực hiện - Trưởng khu chỉ anh cán sự tuyên truyền đứng phía sau.
Huyện trưởng nhìn một thoáng anh cán sự tuyên truyền mặt mày tươi tỉnh gật đầu, hạ giọng nói khẽ nhưng cũng đủ cho người đằng sau nghe thấy:
- Đây đâu phải là phiên tòa, chẳng khác lễ đăng quang của nhà vua?
Phiên tòa quyết định vào buổi sáng ngày mồng Tám tháng Chạp. Những người hiếu kỳ dậy từ nửa đêm, đội trăng đội sao từ làng trên xóm dưới kéo về bãi xử. Trời tờ mờ sáng, bãi đất trống đã dầy đặc những người là người, trên đê Thuồng Luồng, người ta cũng đứng ken nhau như một hàng rào. Mặt trời uể oải nhô lên, nhuốm hồng những cặp lông mi và những bộ ria bám đầy băng, nhuốm hồng những làn hơi thở trăng xóa. Mọi người quên bẵng hôm nay là ngày ăn cháo lạp chúc, nhưng nhà tôi thì không quên. Mẹ giả vờ hăng hái để chúng tôi vui lây nhưng tiếng khóc thút thít của Tư Mã Lương khiến chúng tôi chẳng còn bụng dạ nào nữa. Chị Tám như một bà cụ non, lấy miếng bọt biển lau hai dòng nước mắt cho nó. Nó khóc không thành tiếng, nhưng như thế còn xót xa hơn gào khóc. Chị Cả bám sau mẹ đang tất bật, luôn miệng hỏi:
- Mẹ, anh ấy chết, con có phải tuẫn tiết không?
Mẹ mắng:
- Điên à, ngay dù cưới xin hẳn hoi, cũng khô