Teya Salat
Báu Vật Của Đời

Báu Vật Của Đời

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 325764

Bình chọn: 10.00/10/576 lượt.

xé mặt anh ta. Chị Hai kéo tay mẹ, lớn tiếng trách:

- Mẹ ơi, đây là diễn kịch, không phải thật!

Có mấy người chạy ra, gỡ Kaxi khỏi tay mẹ. Đội trưởng Kaxi mặt đầy máu, bỏ chạy vào trong cổng. Mẹ thở hồng hộc, vẫn chưa hết giận, nói:

- Dám hà hiếp con gái ta nữa thôi?

Chị Hai nổi cáu:

- Mẹ, kịch hay thế mà mẹ phá đám.

Mẹ bảo:

- Chiêu Đệ, về nhà đi con, con không nên diễn loại kịch này.

Mẹ giơ tay kéo chi Hai Chị gạt tay mẹ ra, rầu rĩ:

- Mẹ đừng bêu xấu con ở chỗ này! Mẹ nói:

- Chính con bêu xấu mẹ! Về nhà!

Chị Hai nói:

- Con không về.

Lúc này Tư Mã Khố hát giọng nam cao bước ra: Đánh sập cầu, ta thúc ngựa trở về.... Anh ta đi ủng, dội mũ lính, tay cầm roi da, xuống ngựa - con tuấn mã tưởng tượng - chân di chuyển, người nhấp nhô như sóng, hai tay giữ dây cương vô hình, làm bộ phi ngựa. Chiêng trống rầm trời, đàn sáo réo rắt, nhất là cây sáo ngang khiến người tâm thần mê mẩn, không phải vì kinh sợ, mà vì sức truyền cảm. Tư Mã Khố mặt đanh lại, hát tiếp: Trên đê chợt nghe tiếng ồn ào, ra roi thúc ngựa đến xem sao?.. Hồ cầm mô phỏng tiếng vó ngựa, cộp cộp... cộp cộp... Lòng như lửa dốt, ngựa ruổi như bay, một bước gộp nửa, ba bước gộp hai... Chiêng trống càng gấp, đánh gót, nhích chân, đại bàng nghiêng cánh, trâu già vận hơi, sư tử hí cầu... Tư Mã Khố biểu diễn toàn bộ những tuyệt kỹ của anh ta, khó mà nghĩ rằng mông đít anh ta đang dán miếng cao nặng nửa cân.

Chị Hai sốt ruột đẩy mẹ ra. Mẹ vẫn chửi sơi sơi nhưng đã lui về chỗ cũ. Ba diễn viên sắm vai lính Nhật lách vào giữa lại định nâng chị Hai lên. Đội trưởng Kaxi đã mất tăm, ba người còn lại đành phải hai người khênh đằng đầu, một người khênh hai chân, mái tóc hoa râm của anh ta kẹp giữa hai chân chị Hai trông thật ngộ, khán giả cười rũ. Cái đầu kẹp giữa hai chân nháy mắt nhíu mày, khán giả càng cười, lại càng nhíu mày nháy mắt. Tư Mã Khố tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn hát tiếp: Chợt nghe tiếng người huyên náo, giặc Nhật kia giở thói ngông cuồng, không kể hiểm nguy ta liều xông tới làm điệu bộ túm tay.

- Dừng ngay! Tư Mã Khố túm tóc trên cái đầu kẹp giữa hai chân chị Hai, quát to. Tiếp đó là cảnh đấu võ, vốn là bốn đấu một, nay chỉ còn ba đấu một. Sau một trận đánh xáp lá cà, Tư Mã Khố đã đánh bại quân Nhật, cứu thoát vợ. Giặc Nhật quì trên chiếu, Tư Mã Khố dắt tay chị Hai trong tiếng nhạc tung bừng phấn khởi đi vào trong cổng. Sau đó bốn người cầm đèn khí đốt đột nhiên sống lại, vác sào chạy vào trong, ánh sáng không còn nữa, trước mắt chúng tôi là màn đêm đen kịt.

Sáng sóm hôm sau, quân Nhật chính cống bao vây thôn. Tiếng súng, tiếng pháo, tiếng ngựa hí lôi chúng tôi ra khỏi giấc ngủ. Mẹ bế tôi dẫn bảy chị xuống hầm, bò một đoạn tối tăm ướt át và lạnh, đến chỗ hầm rộng. Mẹ thắp đèn. ánh đèn vàng vọt, chúng tôi ngồi trên cỏ khô, lắng nghe động tĩnh bên trên. Không rõ thời gian đã trôi đi bao lâu, có tiếng thở phì phò ở đoạn hầm phía trước. Mẹ cầm lấy cái kìm rèn sắt, thổi tắt ngọn đèn trong hốc vách hầm. Trong hầm lập tức tối đen. Tôi khóc, mẹ nhét đầu vú vào miệng tôi. Tôi cảm thấy đầu vú của mẹ lạnh ngắt và cúng, mất hẳn tính đàn hồi, còn có vị vừa mặn vừa đắng.

Tiếng thở ngày càng gần, mẹ giơ cao chiếc kìm. Khi đó tôi nghe rõ tiếng chị Hai đã lạc cả giọng:

- Mẹ ơi, mẹ đừng đánh, con dây mà!...

Mẹ thở ra một hơi, hai tay cầm kìm buông thõng:

- Chiêu Đệ, con làm mẹ sợ chết khiếp - mẹ nói.

- Mẹ thắp đèn lên đi, phía sau còn có người - chị Hai nói.

Mẹ rất vất vả mới thắp được đèn lên. ánh đèn vàng vọt lại chiếu sáng căn hầm. Chúng tôi nhìn chị Hai lấm bùn từ đầu đến chân. Trên má chị có một vết máu, trong tay ôm một cái bọc. - Bọc gì đấy? Mẹ hoảng sợ, hỏi. Miệng chị Hai chợt méo xệch, nước mắt chảy trên khuôn mặt lem luốc:

- Mẹ ơi! chị nức nở, đây là con trai của bà Ba.

Mẹ sững người, nổi điên lên:

- ở đâu thì đem trả về đó!

Chị lết bằng đầu gối, ngửa mặt nhìn mẹ:

- Xin mẹ mở lòng từ bi, anh ấy bị giết cả nhà, chỉ còn mỗi hạt giống này....

Mẹ lật một góc cái bọc, lộ ra khuôn mặt choắt vừa gầy vừa đen của thằng nhỏ nhà Tư Mã. Nó đang ngủ say. Nó thở đều đều, miệng chóp chép như đang bú. Tôi căm thằng nhỏ quá đỗi. Tôi nhả đầu vú ra, gào thật to. Mẹ bịt miệng tôi bằng cái đầu vú càng đắng hơn.

- Mẹ có bằng lòng cho nó ở lại không? - Chị Hai hỏi.

Mẹ nhắm mắt, không trả lời.

Chị Hai dúi thằng nhỏ vào lòng chị Ba, quì xuống lạy mẹ một lạy, vừa khóc vừa nói:

- Mẹ ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người ta. Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ.

Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại, hỏi:

- Mày đi đâu bây giờ?

Chị Hai nói:

- Mẹ ơi, chân anh ấy bị thương, hiện nấp ở chỗ cối xay bột. Con phải đi tìm anh ấy!

Lúc này, bên ngoài vọng lại tiếng chân ngựa và tiếng súng chói tai. Mẹ nghiêng người bịt lấy lối ra hầm củ cải, nói:

- Mẹ đồng ý với con bất cứ điều gì, nhưng không thể để con đến chỗ chết!

Chi Hai nói:

- Mẹ ơi, chân anh ấy máu cứ chảy mãi. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết, thì con sống còn có ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi...

Mẹ kêu trời, nhưng sau đó im bặt.