
Đốc giáo trên huyện sẽ phát chẩn vào ngày mồng Tám tháng Chạp tại nhà thờ lớn Quan Bắc, mẹ cùng chúng tôi đem theo bát đũa, nhập vào đoàn người đói khát, đi suốt đêm về hướng huyện thành. ở nhà chỉ còn hai người: chị Ba và bà nội, vì một người nửa Người nửa Tiên, còn một người nửa Người nửa Quỉ, nhịn đói nhịn khát giỏi hơn chúng tôi. Mẹ quẳng cho bà nội một bó cỏ khô, nói:
- Mẹ ơi, nếu chết được thì mẹ chết nhanh đi, mẹ chịu cực cùng chúng con làm gì!
Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi trên con đường dẫn tới huyện lỵ. Cái gọi là con đường chỉ là một lối mòn màu xám được tạo nên bởi những vết chân người và súc vật, không hiểu người đàn bà sang trọng kia cho xe chạy bằng cách nào?. Chúng tôi đi dưới trời sao lạnh. Tôi đứng trong túi trên lưng mẹ, thằng nhóc nhà Tư Mã trên lưng chị Tư, chị Năm cõng chị Tám, chị Sáu chị Bảy tự đi. Vào lúc nửa đêm, trên cánh đồng hoang dã, tiếng trẻ khóc liên miên không dứt. Chị Bảy chị Tám và thằng nhóc nhà Tư Mã cũng khóc. Mẹ lớn tiếng mắng các chị. Nhưng mẹ cũng lại khóc, chị Tư chị Năm chị Sáu đều khóc hết. Các chị loạng choạng gục xuống, mẹ dựng ngược chị này dậy thì chi khác lại gục xuống, kéo được chị kia dậy thì chị này lai đổ xuống. Về sau, mẹ cũng ngồi bệt trên mặt đất băng giá. Chúng tôi chụm lại một chỗ sưởi ám cho nhau. Mẹ xoay tôi ra phía ngực, dùng ngón tay tê cóng quệt mũi cho tôi. Chắc mẹ nghĩ tôi đã bị chết cóng. Tôi dùng hơi thở thoi thóp để báo cho mẹ biết là tôi vẫn còn sống. Mẹ nâng mảnh vải che, nhét đầu vú lạnh như băng vào miệng tôi, tôi tưởng như cục băng đang tan, miệng tôi mất hết cảm giác. Trong bầu vú của mẹ không có gì, tôi cố mút cũng chỉ rỉ ra một chất mảnh như tơ nhện. Rét ơi là rét! Trong giá lạnh, những con người đói khát tưởng tượng ra bao cảnh hấp dẫn: Lửa rừng rực trong lò, gà vịt trong nồi bốc hơi nghi ngút, từng mâm bánh bao, lại còn hoa tươi, lại còn cỏ xanh mượt. Trước mắt tôi lại toàn là những bầu vú đầy nhựa sống như trái hồ lô, tròn trịa như chim bồ câu bé nhỏ, nhẵn nhụi bóng bẩy như bình sứ. Mùi thơm của chúng, vẻ đẹp của chúng, nước cam lồ mà chúng tự động tiết ra rót đầy bụng tôi, thấm đẫm toàn thân tôi, tôi ôm lấy bầu vú, tôi bơi trong dòng sữa... Trên đầu, hàng tỉ tỉ ngôi sao đang xoay vần, xoay mãi, xoay tròn thành những bầu vú Bầu vú Thiên Lang, bầu vú Bắc Đẩu, bầu vú Người Đi Săn, bầu vú Chức Nữ, bầu vú Ngưu Lang, báu vú của Hằng Nga trong vầng trăng, bầu vú của mẹ... Tôi nhả vú mẹ ra, nhìn thấy phía trước không xa, một người giơ ngọn được bằng da dê rách bó lại, nhảy như ngựa đến chỗ chúng tôi. Đó là ông Ba Phàn. Ông cởi trần, hét to, giọng khản đặc, trong mùi khét tức thở của da dê, dưới ánh sáng của ngọn được:
- Bà con ơi, đừng ngồi xuống... Đừng ngồi xuống? Ngồi xuống là chết cóng... Đứng dậy cả đi bà con ơi! Đi tiếp đi, bà con ơi!... Đi tiếp là sống, ngồi lại là chết!...
Lời kêu gọi cảm động của ông Ba Phàn khiến nhiều người cố thoát khỏi sự ấm áp giả tạo dẫn đến tử vong, trở lại cái rét khắc nghiệt nhưng là để sống. Mẹ đứng lên, xoay tôi ra sau lưng, ôm thằng nhỏ đáng thương nhà Tư Mã trước ngực, dắt tay chị Tám, rồi như một con ngựa điên, mẹ đá lia lịa vào chị Tư chị Năm chị Sáu chí Bảy, bắt các chị đứng lên. Chúng tôi đi theo ông Ba Phàn; người đã dùng trái tim mình làm ngọn được soi đường, không phải đi bằng chân, mà là bằng ý thúc, bằng tấm lòng, nhằm hướng huyện lỵ, nhằm nhà thờ lớn Bác Quan, hướng về Âm trạch của Thượng đế, hướng về bát cháo bố thí, đi tới.
Trong cuộc hành trình bi tráng đó, để lại dọc đường mấy chục xác chết, có xác vén áo lên, khuôn mặt ngời ngời hạnh phúc như được ngọn lửa sưởi ấm lồng ngực. Ông Ba Phàn chết giữa lúc vừng hồng vừa ló lên. Chúng tôi được ăn cháo bố thí của Thượng đế. Tôi được ăn qua bầu vú mẹ. Suốt đời tôi không thể quên cảnh húp cháo. Nhà thờ cao to sừng sũng. Lũ quạ đậu trên cây thánh giá. Xe lửa thở phì phò trên đường sắt. Hai cái chảo lớn có thể luộc cả con trâu, bốc hơi nghi ngút. Ông mục sư mặc áo chùng đen đứng bên cầu nguyện. Vài trăm người đói xếp hàng. Người hội viên hội Thần chiêu dùng cái muỗng có cán dài chia cháo, mỗi người một muỗng không kể bát lớn bát bé. Tiếng húp cháo soạn soạt, mùi cháo thơm phức. Bao nhiêu giọt nước mắt rơi xuống bát cháo. Hàng trăm cái lưỡi liếm sạch cháo trong bát. Húp xong một bát lại xếp hàng. Vài bao gạo, vài thùng nước lại đổ vào chảo. Lúc này, qua sữa mẹ, tôi biết rằng, bát cháo từ bi này được nấu bằng gạo tâms, cao lương mốc, đậu ủng và lúa mạch còn nguyên cả trấu.
Sau khi ăn cháo trên huyện, trên đường trở về cái đói càng dữ dội. Người ta không còn sức để chôn những xác chết trên đường, thậm chí không còn tâm trạng nhìn mặt người chết chỉ mỗi xác ông Ba Phàn là ngoại lệ. Trong giờ phút nguy ngập, con người không được người ta ưa lắm này cởi phăng áo da dê làm thành bó đuốc, dùng ánh lửa và lời lẽ thức tỉnh lý trí của chúng tôi. Không thể quên cái ơn cứu mạng. Mẹ dẫn đầu, mọi người kéo cái xác gầy như que củi xuống vệ đường. Nấm mồ được đắp bằng đất vụn.
Về đến nhà, phát hiện đầu tiên của chúng tôi là chị Ba ôm một cái bọc mà