
Liễu Địch đứng bất động bên tấm biển sắt, cô không rõ cô đang nghĩ gì. Sau đó, khi xe buýt vừa chuyển bánh, thầy Chương đột nhiên thò đầu ra khỏi cửa sổ ô tô và vẫy tay với Liễu Địch.
Liễu Địch hoàn toàn sững sờ khi bắt gặp nụ cười rạng rỡ trên gương mặt thầy. Thầy Chương nở nụ cười, lần đầu tiên nở nụ cười tươi. Nụ cười đó trong sáng như bầu trời mùa thu không một gợn mây, rạng rỡ như ánh nắng mùa xuân...
Liễu Địch ngây ngốc dõi theo chiếc xe buýt mỗi lúc một xa, cho đến khi gương mặt và nụ cười xán lạn của thầy Chương biến mất trong sắc chiều tà. Bước qua cánh cửa ngôi trường đại học Bắc Kinh, Liễu Địch phát hiện cô tiến vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ.
Cô không biết Yến Viên (Yến Viên: Khuôn viên đại học Bắc Kinh, nằm ở phía Tây thành phố Bắc Kinh) lại rộng lớn như vậy, hồ Vị Danh sương khói mờ mịt, quanh bờ cây cối xanh ngát, các khu giảng đường trung tây kết hợp, khu nhà ở tao nhã đẹp đẽ như vậy.
Có lẽ người dân sống lâu đời ở Bắc Kinh cũng chưa chắc đã đi hết khu vực này, từ các dãy nhà cổ kính trang nghiêm như cung đình đến khu biệt thự nằm trong vườn cây rợp bóng.
Liễu Địch không biết Yến Viên có đông nhân tài như vậy. Một ông già trông rất bình thường đi thong thả trong sân trường có thể là một nhân vật được kính trọng của giới học thuật. Bạn cùng phòng ký túc xá có thể là "trạng nguyên" của một tỉnh nào đó. Nơi này tụ tập anh tài của cả nước, nơi này có nền giáo dục tốt nhất. Ở đây, không ai dám tự xưng là "thiên tài", cũng chẳng có người nào dễ dàng chịu thua. Ai nấy đều cố gắng học tập, âm thầm đọ sức.
Liễu Địch không biết bầu không khí học thuật ở Yến Viên lại tự do và nồng đậm như vậy. Ở nơi này, các loại tư tưởng, các loại quan điểm, các loại bè phái, các loại phương pháp đều có đất dụng võ. Bạn có thể tự do phát biểu quan điểm của bạn, tự do lựa chọn phương pháp học tập thích hợp, tự do phát huy tài năng của mình. Thái Nguyên Bồi tiên sinh từng đề xướng và xác lập phong cách "thu gom tất cả" của nhà trường, đến bây giờ vẫn được áp dụng. Sinh viên có thể không lên lớp, nhưng rất hiếm người lười biếng, ai nấy đều nỗ lực, đầu óc không ngừng tư duy. Trong trường hầu như ngày nào cũng dán thông báo về các buổi báo cáo học thuật và tọa đàm. Đến buổi tối, thư viện đèn đóm sáng trưng, cả tòa nhà thư viện như con thuyền lớn lướt qua ngọn sóng trên mặt biển tối đen để tiến về phía trước...
Liễu Địch kinh ngạc, cảm thán và hưng phấn vô cùng. Cuối cùng cô cũng có thể lý giải câu nói của thầy Chương, đây là thánh đường của tinh thần và tri thức nhân loại. Cô như một đứa trẻ lang thang, đột nhiên lạc vào thánh đường kỳ diệu này, khiến cô nhất thời rối mắt và luống cuống. Tuy không thể lập tức lĩnh hội tinh túy của Bắc Đại, nhưng Liễu Địch hoàn toàn say mê. Bắc Đại là nguyện vọng lớn nhất của cô, ngôi nhà của cô.
Liễu Địch sốt sắng lao vào vòng tay của Bắc Đại, ra sức hấp thu tri thức. Cô nhanh chóng tìm thấy cảm giác mà thầy Chương từng nhắc tới: như cá gặp nước.
Trong niềm hưng phấn và say mê tột độ, Liễu Địch không vội đi tìm giáo sư Tô Văn. Nhưng ngày thứ ba sau khi nhập học, giáo sư Tô Văn đã tự tìm đến cô. Thế là Liễu Địch đi theo giáo sư về nhà ông, "Trúc Ngâm Cư" nằm trong khu Kính Xuân Viên của Bắc Đại.
Kính Xuân Viên nằm bên cạnh Lãng Nhuận Viên, hai khu vực này có diện tích mặt nước khá lớn, ở đây xuất hiện nhiều cây cầu bằng đá nối liền nhau, tạo thành vẻ đẹp hoang sơ. Trong Kính Xuân Viên đều là những ngôi nhà thấp, nằm xen lẫn lùm cây xanh, giống như phong cảnh thị trấn nhỏ thơ mộng ở Giang Nam.
Bên trong Kính Xuân Viên còn có ao sen. Nhìn những đóa sen màu hồng nổi bật trên phiến lá xanh, Liễu Địch bất chợt nhớ đến tản văn "Ánh trăng bên hồ sen" của Chu Tự Thanh. Không biết ánh trăng ở ao sen này có đẹp như bài văn đó. Nhà của giáo sư Tô Văn tọa lạc ở một rừng trúc nhỏ đằng sau ao sen.
Vừa đi vào rừng trúc, Liễu Địch liền cảm thấy ánh sáng tối dần. Trên lối đi trải đầy những hòn đá vụn. Dưới tán trúc dày đặc, đến hòn đá cũng được nhuộm một màu xanh trong suốt. Gió thổi qua lá trúc, phát tiếng kêu xào xạc. Nơi tận cùng thấp thoáng mấy ngôi nhà ngói màu xám và tường màu trắng. Bức tường trắng có một cánh cửa gỗ nhỏ, màu đỏ thẫm. Bên trên cánh cửa viết ba chữ ngay ngắn: "Trúc Ngâm Cư". Hai bên dán câu đối: "Nhàn xứ huề thư hoa hạ tọa, hưng lai đắc câu trúc gian ngâm" (Đại ý: Nhàn rỗi cầm sách ngồi dưới hoa, hứng thú đến được câu Trúc gian ngâm), người viết là "Hải Thiên kính đề". Liễu Địch bất giác thầm cảm thán: " Câu đối hay quá! Chữ đẹp quá! Tên người rất tuyệt!".
Đi vào cổng, Liễu Địch phát hiện bên trong là cái sân tương đối lớn. Trong sân có một đình nhỏ, mái vàng cột đỏ. Trên cây cột cũng treo một câu đối giấy đen chữ vàng: "Số can tu trúc thất gian ốc, nhất tịch thanh phong vạn hách vân" (Đại ý: Trong khu rừng trúc có bảy gian nhà, trên trời gió mát vạn rãnh mây). Liễu Địch lại cảm thán: "Rất có khí phách!". Cô nhìn kỹ, người viết câu đối vẫn là "Hải Thiên kính đề".
Trong sân nhỏ đúng là có bảy gian nhà mái bằng, phía đông và tây có hai gian nối liền nhau, ba gian phòn