
ải bỏ thuốc? Nếu thế những người dân trồng thuốc
lá trên đất nước này sẽ thất nghiệp hết à?
Tôi
ngồi đó, mơ màng nhìn đám khói thuốc trước mặt. Còn bác kia ngồi chăm chú nhìn
cần câu, người bất động.
“Cô
thanh niên này, cháu đang có chuyện gì nghĩ không ra đúng không?” Bác ấy đột
nhiên hỏi tôi bằng giọng rất trầm.
Tôi
ngây người, cười như mếu: “Bác à, cháu không còn là thanh niên nữa, cháu già
rồi.”
Bác ta
không quay đầu lại, cũng không nhìn tôi. Khuôn mặt hồng hào, tinh thần sung
mãn, xem chừng bác ta là người theo chủ nghĩa lạc quan. Nhưng tôi vẫn có thể
nhìn thấy đầu nếp nhăn trên khuôn mặt vui vẻ đó, xem ra, ai rồi cũng sẽ phải
già.
“Nếu
cháu không phải là thanh niên thì sao lão già ta đây lại còn sống? Bất kể gặp
chuyện gì cũng phải tươi cười mà bước qua, đừng mất nhiều thời gian suy nghĩ
một việc như thế này. Đợi đến lúc già, hối cũng không kịp.” Nói xong bác ấy
giật cần câu. Mồi đã bị ăn hết, nhưng lại không giật được cá, bác ấy cười cười,
mắc mồi mới, rồi lại thả câu.
“Bác à,
bác bao nhiêu tuổi ạ?” Tôi dập điếu thuốc đang cháy.
Bác ấy
vuốt vuốt tóc: “Bác đã bảy mươi hai tuổi rồi.”
Bác ấy
nói điều này khiến tôi có một cảm giác khó tả, giống như đột nhiên cảm thấy
cuộc sống này rất đáng quý, lại giống như đang tưởng tượng một cái gì đó xa
vời.
“Là
chuyện tình cảm à?” Bác ta lại khẽ hỏi.
“Vợ bác
mất mười một năm rồi, bác sống một mình cho đến nay.” Bác ấy dừng lại một lát,
khẽ thở dài: “Lúc đầu bác nghĩ bà ấy bỏ đi rồi, cuộc sống của bác chẳng còn ý
nghĩa gì nữa. Dầu, muối, tương, dấm đều không biết để ở đâu, nhà cửa không biết
phải thu dọn thế nào. Căn nhà không có tiếng người, buổi tối bên cạnh là khoảng
trống mênh mông. Khi bà ấy mất rồi, bác mới biết bà ấy đã vì bác mà làm bao
nhiêu việc, ân tình này cả đời bác cũng không trả hết được. Đã không trả hết
thì càng phải sống, sống để nhớ về người đã khuất. Cháu xem, chẳng phải bác vẫn
đang sống tốt như thế này sao?” Giọng nói của bác ấy nhỏ dần, êm ái, tôi nhìn thoáng
qua thấy ánh mắt bác ấy bao phủ một màu thê lương, khóe mắt khẽ giật giật.
Bác ấy
nói: “Người sống thì phải sống cho tốt, vì đời người ngắn chẳng tày gang.”
Một
người đã sống bảy mươi hai năm trên đời đương nhiên có thể nói ra những lời
khiến người ta cảm thấy khâm phục, tôi nghe xong mà có cảm giác mình đã ngộ ra
chân lý.
Không
biết từ lúc nào trời có sương mù, sương giăng mờ mờ làm tầm nhìn bị hạn chế.
Bác ấy câu được một con cá rất nhỏ, rồi lại thả xuống hồ. Bác ấy thu dọn cần
câu và ra về, bóng bác khuất dần trong màn sương mù dày đặc.
Về sau,
thỉnh thoảng tôi lại nhớ câu nói của bác ấy: “Người sống phải sống cho tốt, vì
đời người ngắn chẳng tày gang.”
Câu nói
này có lẽ được rút ra từ kinh nghiệm sống qua bảy mươi mấy năm của bác ấy, có
lẽ tôi cũng chỉ hiểu được ở mức rất nông cạn.
Tôi
thay một cái áo len dày, thêm áo khoác, và quàng một chiếc khăn len dài, ăn mặc
giống như những người xung quanh. Bộ váy ngắn và áo sơ mi này tôi sẽ mang quyên
góp cho những người nghèo.
Trên
thế giới này chắc cũng chỉ có một người con gái giống như Hứa Y Thần tôi, sang
mùa thu rồi còn mặc váy ngắn, áo sơ mi để hoài niệm về một người, tưởng nhớ một
mối tình đã chấm dứt cách đó bốn tháng mười tám ngày.
Nhưng
con gái mà ngốc nghếch một tí, người khác nhìn vào có lẽ sẽ thấy đáng yêu.
Tối hôm
đó, Lăng Sở gọi điện, nói là muốn mời tôi ăn cơm, chuyện này đương nhiên là
chuyện tốt. Tôi đứng trước gương trang điểm kỹ càng, rất lâu sau mới mở cửa đi
ra. Hứa Y Thần tôi chẳng thay đổi chút nào, vẫn vóc dáng cao cao, mềm mại, dịu
dàng, chỉ là so với trước đây, tôi có gầy hơn một chút, mắt trũng sâu hơn một
chút.
Tôi làm
ra dáng rất thục nữ bước vào cửa, cô nhân viêc tiếp tân tươi cười niềm nở đón
tôi. Dáng vẻ ấy thật khiến tôi cảm động.
“Y
Thần, trông em cứ như vừa đi thám hiểm Bắc Cực về ấy.” Thấy tôi mặc nhiều áo
như vậy, Lăng Sở nói mỉa mai.
“Nhận
xét này không hợp, chị cả của anh là tôi vừa mới tham dự tang lễ về.” Anh chàng
phục vụ đứng bên cạnh ít nhiều làm tôi lúng túng. Lăng Sở đúng là đồ mặt dày,
nhơn nhơn lấy thực đơn giơ ra trước mặt tôi.
“Cho
tôi mộc nhĩ trộn mù tạt.” Tôi phải tìm mỏi mắt mới thấy một món ăn mà tôi nghĩ
rằng Lăng Sở sẽ sợ.
Lăng Sở
khoanh tay trên bàn, ngậm đũa, ngây ngốc nhìn tôi.
Lúc
thức ăn được mang ra, tôi lấy đũa gắp đầy mộc nhĩ trộn mù tạt trong đĩa vào bát
cho Lăng Sở. anh ấy cười cười, bỏ những thứ tôi mới gắp ra khỏi bát. Tôi tức
giận nhìn anh ấy đúng một phút.
“Không
được bỏ đi.” Thấy Lăng Sở muốn ăn món khác, tôi bất mãn nhìn anh ấy, còn lấy
đũa gõ gõ xuống bàn để cảnh cáo.
Tên
tiểu tử đó cũng biết điều, vội vàng gắp hết mộc nhĩ vào bát.
“Ăn đi,
đừng có ngại.” Thậm chí, sau đó tôi còn thêm một câu: “Đừng khách sao, đều là
người quen cả mà.”
Có lẽ
người khác nhìn vào sẽ thấy đây là một cảnh tượng rất thân tình, nhưng có ai
biết được Lăng Sở sợ nhất là phải ăn mù tạt.
Tôi
nhìn Lăng Sở, thấy con ngươi sẫm màu loáng nước. Lăng Sở dùng khăn giấy bịt
mũi, những giọt nước mắt nh