
địch, bộ tộc Dạ Kiêu bị chặn phía ngoài
sông, không thể tiến thêm được một bước.
Chàng phát quang được
một mảnh đất trống trong vườn, gieo hạt giống lên mảnh đất trống đó,
dùng nước suối trời pha một chút nước suối thường để tưới cây, ngày hôm
sau, hạt giống đã này mầm thành một cây non xanh tốt.
Ngày mười
bốn tháng tám, bộ tộc Dạ Kiêu công phá thành công Bán Nguyệt trận, A Lan Nhược sử dụng Chiêu Hồn trận, trên sông Tư Hành nghiệp hỏa cháy ngút
trời.
Chàng vun xới thêm đất cho cây non, mấy ngày nay đám cây
non đã mọc thành tán xanh biếc, một cây trong đó còn nở một đóa hoa nhỏ
xinh xắn, chàng dùng pháp thuật lưu giữ cho hoa tươi mãi, nghĩ rằng đóa
hoa này rất hợp với nàng.
Ngày mười bảy tháng tám, A Lan Nhược tử trận, hồn phách tan thành cát bụi, tan biến trong dòng sông Tư Hành.
Chàng đi đi lại lại trong vườn, hoa tứ quý đã nở kín cành, chàng lấy kéo cắt
một vài cành hoa đẹp nhất, cũng muốn giữ lại những cành đó để sau này
nàng có thể cầm chơi.
Theo lời đồn đại, Tương Lý Hạ tử trận, A
Lan Nhược mang tội chết, Thường Đệ mà Tương Lý Khuyết sinh thời cưng
chiều nhất, cũng nghe đồn rằng sau khi hay tin Tương Lý Khuyết qua đời,
vì quá đau buồn nên đã phát điên. Một vương thất lớn như vậy, người kế
vị lại chỉ còn một mình Quất Nặc. Ngày mười chín tháng tám, Quất Nặc
đang bị lưu đày bên ngoài được đón về Vương đô kế vị. Ngày hai mươi
tháng tám, Quất Nặc đích thân đến thần cung xin chàng làm lễ cầu phúc,
sau khi tế lễ xong đã mời chàng tới hồ sen đi dạo.
Thiếu nữ đơn
thuần, luôn giữ vẻ tôn nghiêm cao quý trước đây giờ trên gương mặt lại
đầy ắp vẻ từng trải, đưa mắt ra xa nhìn mặt nước giữa hồ sen, hồi lâu
mới nói: “Lưu đầy hai năm, tuy chịu một vài gian khổ, nhưng trong hai
năm đó, muội dường như mới sống một cuộc sống thật sự, đã hiểu được về
một vài người, cũng hiểu được vô số việc. Trong ba chị em muội, thực ra
người được giáo dưỡng tốt nhất lại chính là A Lan Nhược, sau khi lớn
lên, muội căm ghét muội ấy như vậy chẳng qua chỉ vì muội ấy đã sống một
cách thoải mái, không gò ép, khiến muội rất ngưỡng mộ. Khi muội ấy mới
được sinh ra, muội còn nhớ, muội đã rất thích muội ấy”. Chàng không biết nàng ta nói những lời đó là có ý gì, cũng không tiếp lời.
Một
lát sau, Quất Nặc lại nói: “Có rất nhiều việc mẫu thân không nói rõ với
muội, nhưng trong lòng muội thực ra đều hiểu rõ, nói A Lan Nhược giết
vua, muội, muội cảm thấy đó không phải là sự thật”. Nàng quay đầu lại
nhìn chàng: “Biểu ca, mẫu thân khiến muội cảm thấy có chút đáng sợ”.
Cả đời Khuynh Họa đều vì cô con gái lớn này, hổ dữ còn không ăn thịt con,
bà ta lại sẵn sàng dùng máu thịt của những đứa con gái nhỏ để đúc lên
vượng tọa của Quất Nặc. Cuối cùng, Quất Nặc lại không hề có nửa phần cảm kích, mà chỉ cảm thấy bà ta đáng sợ, đây chính là báo ứng.
Chàng lạnh lùng đáp lại một câu: “Thứ mà ngươi sợ không phải bà ta, mà chính
là quyền lực trong tay bà ta. Giờ ngươi đã là Thượng Quân, mẫu thân của
ngươi không nên can thiệp vào việc triều chính quá lâu”.
Ngày hai mươi hai tháng tám là một ngày đẹp trời, ánh nắng không quá gay gắt,
thi thoảng có gió nhẹ. Kiểu thời tiết như thế này, thích hợp nhất cho
việc đi thăm bạn bè thân hữu. Dường như đã đặc biệt lựa chọn từ trước,
ngày hôm đó, Tức Trạch thần quân tới thần cung thăm chàng.
Lúc
đó, chàng đang đọc sách trong vườn cây tứ quý, Tức Trạch đi qua nguyệt
môn, bước thẳng tới trước mặt chàng, thần sắc có phần phờ phạc lạnh
nhạt, bỏ qua màn chào hỏi, ngồi ngay xuống trước mặt chàng, nói: “Bên
ngoài núi đã có biết bao biến động, ngươi ẩn thân ở đây, có vẻ rất an
nhàn”.
Chàng ngẩng đầu khẽ liếc nhìn Tức Trạch một cái, tay lật
giở một trang, lại nhìn vào trang sách: “Ta còn nhớ trước đây ngài
thường nói, thần cung là nơi đứng ngoài thế sự, nếu đã như vậy, những
thế sự đó có can hệ gì với thần cung chứ?”. Lại lật giở thêm một trang
sách, nói: “A Lan Nhược nàng ấy…”.
Tức Trạch cau mày, ngắt lời:
“Ta chưa từng biết đến chữ tình, đương nhiên không hiểu được ngươi và A
Lan Nhược suy nghĩ thế nào. Nhưng ngươi đã hỏi câu này, có thể thấy
trong lòng ngươi vẫn còn nhớ tới nàng, nếu đã như vậy, sao phải ép nàng
tới bước ấy. Đương nhiên, chuyện của hai người, ta là người ngoài, không tiện nói điều gì, con đường ngươi lựa chọn, con đường nàng lựa chọn,
chẳng qua đều là số mệnh của mỗi người”. Tức Trạch thở dài một tiếng,
nói: “Hôm nay ta tới đây, chẳng qua cũng vì thực hiện một tâm nguyện của nàng, nghe nói ngươi còn giữ hai mươi phong thư của A Lan Nhược, trước
khi ra đi, nàng đã nhờ ta lấy lại”.
Những câu nói của Tức Trạch
giống như đã nói lên điều gì đó, lại giống như chẳng nói gì cả, duy chỉ
mấy từ ‘trước khi ra đi’ lại như những cây kim dài đâm vào tai chàng,
ngón tay chàng sững lại trên trang sách, chậm rãi nói: “Trước khi ra đi? Ngài đã cứu nàng, nhưng lại để nàng ra đi sao?”.
Tức Trạch sững người lại, dường như chưa hiểu rõ tại sao chàng lại hỏi vậy.
Một linh cảm chẳng lành tràn lên trong tim chàng, chàng bỗng nhiên đứng
dậy, bước về phía cửa vườn: “Ngài