
h kêu.
Trong căn
phòng nhỏ giữa rừng, một lão nhân tóc trắng đang ngồi xếp bằng trên
chiếu, người học trò trẻ tuổi cung kính hỏi: “Đệ tử có một việc không
hiểu, muốn thỉnh giáo sư phụ. Người đã dạy học ở Bắc Mạc nhiều năm, được mọi người kính mến. Sao sư phụ lại rời khỏi Bắc Mạc, tìm đến Vân
Thường?”.
Lão nhân
cười nói: “Người già thường hay sợ chết. Tứ quốc sắp đại loạn, không đến Vân Thường, nơi an toàn nhất, thì biết trốn đi đâu?”
Đệ tử ngạc nhiên: “Sao sư phụ biết Vân Thường là nơi an toàn nhất?”
“Ha ha, danh tướng trong thiên hạ, một là Sở Bắc Tiệp, một là Hà Hiệp. Bây giờ còn lại ai?”
“Sở Bắc Tiệp không rõ tung tích, Hà Hiệp hiện là Phò mã ở thành đô Vân Thường”
“Tiểu Kính
An Vương đâu phải là người có thể cam tâm làm Phò mã?”, lão nhân thở
dài, “Quy Lạc tự rước họa vào thân, hủy hoại lá chắn hộ quốc là vương
phủ Kính An, Bắc Mạc không còn Tắc Doãn, Đông Lâm mất đi Sở Bắc Tiệp.
Một khi Hà Hiệp dẫn theo đại quân Vân Thường xông tới, ba nước còn lại
không còn đại tướng có khả năng đối kháng với Hà Hiệp. Muốn tránh họa
chiến tranh, ngoài Vân Thường ra, còn có thể đi đâu?”.
“Sư phụ kết luận có sớm quá không?”
“Một tướng tài như Hà Hiệp, liệu còn ai có thể sánh vai?”
“Có”, đệ tử đáp, “Sở Bắc Tiệp”.
Lão nhân mỉm cười nhìn đệ tử, như nhìn một đứa trẻ chưa hiểu chuyện: “Sở Bắc Tiệp giờ đang ở đâu?”.
Cũng là người bướng bỉnh, đệ tử đáp: “Chỉ cần còn sống thì Sở Bắc Tiệp vẫn là danh tướng, vẫn là đối thủ của Hà Hiệp”.
“Người sống
thì có tác dụng gì? Nếu chỉ là cái xác không hồn, dù có chạm mặt Hà
Hiệp, Sở Bắc Tiệp chẳng qua chỉ là tặng không tính mạng cho người khác.”
“Có một người nhất định sẽ giúp Sở Bắc Tiệp phấn chấn trở lại”.
“Ai?”
“Bạch Sính Đình.”
Lão nhân cười hỏi: “Bạch Sính Đình giờ ở đâu?”.
Đệ tử sững người, cúi đầu đáp: “Đã chết rồi”.
“Đúng thế, đã chết rồi.” Lão nhân vuốt chòm râu bạc, khẽ thở dài.
Đệ tử vẫn không chịu từ bỏ, nói: “Sở Bắc Tiệp có thể hăng hái vì Bạch Sính Đình, biết đâu cũng sẽ hăng hái vì người khác?”.
Lão nhân dịu dàng nhìn học trò, đôi mắt già nua mờ đục, nhưng vẫn lấp lánh ánh sáng của trí tuệ.
“Trò đã bao giờ nghe thấy tiếng đàn của Bạch Sính Đình?”
“Đệ tử chưa từng.”
“Trò đã bao giờ gặp Bạch Sính Đình?”
“Đệ tử chưa từng.”
“Trò đã bao giờ được đọc lá thư của Bạch Sính Đình mà Công chúa Vân Thường gửi Sở Bắc Tiệp trên chiến trường?”
“Đệ tử chưa
được đọc”, đệ tử cúi đầu trả lời, “Đệ tử chỉ nghe tên của Bạch Sính
Đình, nghe kể những câu chuyện về Bạch Sính Đình”.
Bạch Sính Đình, Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An.
Tên của nàng truyền khắp thiên hạ.
Câu chuyện của nàng vẫn chưa kết thúc.
Sơn mạch Tùng Sâm là lá chắn thiên nhiên ngăn cách hai nước Bắc Mạc và Vân Thường.
Thôn trang
nhỏ xíu ấy nằm dưới chân sơn mạch Tùng Sâm, luận về địa giới vẫn thuộc
lãnh thổ Bắc Mạc, nhưng nơi hoang vắng này không có lợi ích quân sự,
cách cửa khẩu cũng xa, người trong thôn chỉ lên núi hái thuốc, săn bắn,
núi non hoang vắng, đâu quan tâm gì đến Vân Thường hay Bắc Mạc.
“Sơn mạch Tùng Sâm là của chúng ta”, A Hán vẫn thường cười ha ha mà rêu rao như vậy.
Xa xa, những dãy núi quanh năm tuyết phủ sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tựa như
một tấm gương chói chang. Đã trồng xong vụ xuân, trên thảo nguyên bao la phía đông, cỏ non vươn mầm mạnh mẽ.
Mùa xuân đã đến, nơi nơi vang lên khúc hát mùa xuân.
“Đàn dê kêu
vui quá.” Mới sáng sớm, A Hán đã vui vẻ xách sang con gà, lớn tiếng từ
ngoài cổng, “Cô nương, gà nhà chúng ta béo rồi, ta mang một con sang cho hài nhi ăn”.
Dương Phượng từ trong phòng chạy ra, giơ ngón tay lên miệng, lắc đầu, nói: “A Hán,
lần nào cũng quên. Hài nhi đang ngủ ngon, cẩn thận không lại bị đánh
thức bây giờ”.
A Hán bỗng nhớ ra, ngượng ngùng gãi đầu: “Ha ha, sao ta hay quên thế chứ? Tiểu A Hán cũng thường bị ta làm cho giật mình”.
Dương Phượng nhận lấy con gà từ tay A Hán, cười nói: “Cô nương ra ngoài rồi, vào trong ngồi đã”.
“A ca đâu?”
“A ca và Ngụy Đình lên núi rồi, nói là đi săn thú rừng về đổi gạo và dầu.”
Tắc Doãn và
mọi người sống ở đây, chỉ lo việc chăn thả săn bắn, rất ít qua lại với
người khác. Có A Hán vì quen biết với Sính Đình nên thường xuyên qua
lại.
Vốn tính
tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, cũng may A Hán không nhiều
chuyện hỏi han lai lịch của họ bao giờ. Thấy Tắc Doãn lớn tuổi hơn, A
Hán liền gọi là a ca, và Dương Phượng tất nhiên trở thành a tẩu.
“Ta không ngồi đâu, ta còn phải đi xem đàn ngựa.”
“Từ từ hãy
đi.” Dương Phượng gọi A Hán lại, quay vào trong, chẳng mấy chốc cầm ra
một túi giấy, “A Hán tẩu bị lở ở tay đúng không? Đây là thảo dược, mang
về sắc cho tẩu ấy uống”.
Nói đến vết
lở trên tay thê tử, A Hán lại đau lòng cau mày: “Thảo dược cũng vô dụng
thôi, uống bao nhiêu loại rồi, vẫn u lên một cục, buổi tối đau nhức vô
cùng”.
“Thảo dược này khác, nói cho ngươi biết, đây là thảo dược do cô nương hái đấy.”
A Hán trợn tròn mắt: “Cô nương biết thăm bệnh à?”.
“Muội ấy còn biết nhiều hơn thế. Nói tới khám bệnh, tuy không phải là thần y, nhưng
cũng còn hơn Lâu đại phu của c