
nh xe máy, lấy ra cái túi kia, lại chạy tới trước mặt cô ấy.
Mở túi ra, tay phải thò vào bốc một vốc lớn, sau đó tung lên trời.
Từng tấm thiệp đỏ chậm rãi bay lượn trong không trung, ánh mắt Vỹ Đình đầy vẻ kinh ngạc.
“Trong này có tổng cộng chín nghìn chín trăm chín mươi chín tấm thiệp, anh mất một tuần để hoàn thành, vốn định tặng em vào lễ tình nhân ba năm
trước.” Tôi vừa nói, vừa thò tay bốc thiệp, tung lên không trung.
“Anh không mua nổi chín nghìn đoá hồng, đành phải dùng giấy bìa màu đỏ thay
thế, anh biết như vậy rất ngây thơ, thậm chí là ngu ngốc, nhưng anh chỉ
muốn em biết tấm lòng của anh.”
Tôi càng nói càng gấp, càng bốc càng nhiều, càng tung càng nhanh, giữa tôi và cô ấy là một tầng bóng đỏ.
Vỹ Đình đứng mãi không nhúc nhích, có khoảng mười mấy tấm thiệp rơi trên tóc và trên người cô ấy.
Có lúc
từ trên không, có lúc từ dưới đất, có lúc từ trên tóc, có lúc từ trên
người, cô ấy hoặc bắt lấy hoặc nhặt lấy từng tấm từng tấm thiệp, một lần rồi một lần nhìn chữ viết trên đó.
Sau đó cô ấy nhìn tôi, tôi thấy trong mắt cô ấy có nước mắt, vì thế tôi dừng hết các động tác lại.
Khi tấm thiệp cuối cùng đang bay lượn trên không trung rơi xuống đất, cô ấy khóc như mưa.
Tôi cúi đầu nhìn vào trong túi, có lẽ chỉ còn khoảng mấy chục tấm thiệp mà thôi.
Hai tay bốc lấy chỗ thiệp cuối cùng này, lưng quay về phía cô ấy, mặt hướng về mặt trời đang sắp lặn.
Ngẩng đầu lên, giang rộng hai tay, dùng sức tung lên không trung.
Trong khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy mình giống hệt một con công đang xoè đuôi. Mặt trời vừa xuống núi, tôi lập tức đưa Vỹ Đình về cho kịp buổi tiệc lúc bảy giờ.
Trên đường đi chúng tôi hoàn toàn không nói chuyện.
Trước khi lên xe khoé mắt cô ấy vẫn còn đọng lệ; lúc đến nhà hàng tuy ánh mắt hơi hoe đỏ, nhưng không còn nước mắt nữa.
Nhìn đồng hồ, mới có sáu rưỡi, nhưng tôi cảm thấy không khí nặng nề tới mức tôi không thể chịu đựng thêm một phút nào nữa.
Tôi nói bảo trọng, cô ấy nói anh cũng vậy.
Không có không nỡ, day dứt, lưu luyến hay những từ ngữ có thể lay động tâm can.
Nhiều nhất chỉ có vẫy tay, tôi nghĩ.
Về đến nhà vẫn chưa đến bảy giờ, Vinh An vẫn đang nằm trên giường, nhìn thấy tôi lại giật nảy mình.
“Cùng đi ăn cơm đi.” Tôi nói.
“Tớ không làm kỳ đà thì tốt hơn.” Cậu ta nói.
“Không có kỳ đà, chỉ có tớ với cậu thôi.” Tôi nói.
Cậu ta hơi ngẩn người, đứng dậy cùng tôi ra ngoài ăn cơm.
Ăn xong, Vinh An kiếm cớ ở lì trong căn phòng tầng trên, một mình tôi ở tầng dưới xem tivi.
Tay phải cầm điều khiển từ xa, chuyển kênh đến Maximum, lại giảm đến Minimum.
Sau đó lại quay lại từ đầu.
Đến khi mắt sắp mở không nổi, mới tắt tivi, bước khỏi phòng đi ra ngoài sân.
Đèn tầng trên đã tắt, Vinh An chắc đã ngủ rồi.
Tôi chỉ do dự ba giây, bèn leo lên xe, phi về phía Yum.
Tiểu Vân thấy tôi một mình đi tới, không nói một lời ngồi luôn vào góc bên trái quầy bar.
“Vinh An lại xảy ra chuyện rồi sao?” Cô ấy tới gần tôi, dè dặt hỏi.
“Không.” Tôi nói, “Cậu ấy chỉ đang ngủ thôi.”
“Ồ.” Tiểu Vân đáp một tiếng, vẻ mặt hơi kỳ quái.
Tôi chợt hiểu ra.
Bởi vì tôi luôn cùng Vinh An đến nơi này, trừ lần Vinh An phải nằm viện, nhưng cũng chỉ có một lần đó mà thôi.
Vì thế Tiểu Vân thấy lần này tôi lại đến một mình, mới cho rằng Vinh An có thể đã xảy ra chuyện gì.
“Anh phải nói với Vinh An chuyện em trù úm cậu ấy.”
“Anh đừng có mà doạ em nữa.” Cô ấy cười cười, “Vẫn uống cà phê chứ?”
Tôi lắc đầu, sau đó nói: “Anh muốn hỏi em một chuyện trước đã.”
“Anh hỏi đi.”
“Em còn nhớ em đã từng nói với anh về nghiên cứu của Mausolus ở học viện MIT không?”
“Đương
nhiên là nhớ.” Cô ấy nói, “Kết luận của ông ấy là: Khi hai người hoàn
toàn xa lạ gặp nhau, kết quả phát hiện ra mình cùng quen những người bạn chung, việc này không hề khó như trong tưởng tượng.”
“Nếu hai người đã từng rất thân thiết mà sau đó lại trở nên xa lạ, tỉ lệ chẳng may gặp lại nhau là bao nhiêu?”
“Em không biết.” Cô ấy nghĩ một lúc, “Nhưng tỉ lệ này có lẽ cũng cao hơn so với tưởng tượng.”
“Em cũng nghĩ vậy.”
“Sao lại hỏi chuyện này?”
“Hôm nay anh gặp lại đàn chị của em Liễu Vỹ Đình.”
Tiểu Vân giật mình, không những không đáp trả, cũng không biết nên phản ứng như thế nào.
“Anh muốn một ly Gin Tonic.” Tôi nói.
“Được.” Cô ấy nói.
Tiểu Vân pha một ly Gin Tonic đặt trước mặt tôi, cười cười rồi lui bước.
Nâng ly rượu lên uống một hơi, nghe thấy có người nói: “Gin Tonic là rượu của những người cô đơn.”
Tôi quay đầu, lại nhìn thấy người đàn ông gọi Martini kia.
“Đúng vậy.” Tôi nói.
Anh ta nhếch nhếch khoé miệng, tỏ ý mỉm cười, đáng tiếc là hơi cứng nhắc.
Cơ thịt ở khoé miệng anh ta giống như cánh cửa sắt đã han gỉ, vừa kéo đã có thể nghe thấy tiếng ken két.
Ở quầy bar của Pub, tỷ lệ một người đàn ông xa lạ bắt chuyện trước với bạn là bao nhiêu?
Nếu tôi là nữ, tỷ lệ này chắc chắn rất cao.
Nhưng tôi là nam, vì thế tỉ lệ này có lẽ rất nhỏ.
Tôi cúi đầu im lặng uống rượu, Martini tiên sinh (tạm gọi anh ta như thế) cũng không nói gì với tôi.
Vốn
tưởng rằng nghĩ lan man về mấy vấn đề tỉ lệ này có thể phân tán sự chú