
thượng điệu hãm bính’: bánh nướng từ trên trời rơi xuống, là một chuyện đồng thoại của trẻ em Trung Quốc. Tiểu Mặc sử dụng với ý nói ‘không tốn chút công sức mà chỉ ngồi không hưởng lợi’, chê Ngụy công công đã già còn ngu, trên đời làm gì có chuyện ăn sẵn như thế chứ, chết cũng đáng tội.
(2): thuốc súng, trong lời nói hằn học gây chiến
(3): tên mặt trắng: thường thành ngữ này được sử dụng với 2 nghĩa: 1 là chỉ những bạn bạch diện thư sinh chân yếu tay mềm, 2 là chỉ những tên nịnh thần, chỉ dùng ba tấc lưỡi mà thăng quan tiến chức, ở đây khi Tiểu Mặc viết như vậy thì hiểu theo nghĩa nào cũng đúng cả.
Chủ khách chan hòa đối ẩm, không câu nệ thứ bậc, Cổ Mục Kỳ uống rượu say đến túy lúy, quay sang các đồng đội đồng chí đã từng vào sinh ra tử mà thổ lộ rất thật lòng: “Các huynh đệ, đừng trách lão Cổ ta không nói trước điều này cho các ngươi biết: Phương tiểu hầu gia tuy niên kỷ còn trẻ lại hay đùa bỡn tán dóc, đối với chuyện gì cũng tỏ ra không thèm quan tâm, cứ bình chân như vại, bộ dáng lúc nào cũng có vẻ lười biếng, đại khái qua loa, nhưng nếu các ngươi thấy vậy mà tỏ ra khinh thường hắn thì hãy coi chừng, không hay cho các ngươi đâu! Nếu ở trước mặt hắn các ngươi dương dương tự đắc, ra vẻ ta đây thì hãy xem, Ngụy thái giám kia là tấm gương tày liếp của các ngươi đó. Một người không thể xem thường như vậy, vậy mà chúng ta lúc trước dám ngang nhiên vũ nhục, đem hắn ra làm trò tiêu khiển chế nhạo, chỉ cần nhớ tới việc đó, lão Cổ ta cứ không rét mà run lẩy bẩy!”
Mỗi lần hồi tưởng lại lúc Phương Quân Càn nổi cơn thịnh nộ, Cổ Mục Kỳ vẫn còn rùng mình ớn lạnh, ông khẽ chép miệng: “Con người thâm trầm sâu sắc mà chẳng cần tỏ lộ, tài nghệ cao cường xuất chúng mà không thèm khoe mẽ, nhưng đôi mày kiếm chỉ cần nhướng lên cũng tỏ ra khí chất hơn người, đúng là chân nhân bất lộ tướng. Ta thấy, Phương tiểu hầu gia của chúng ta tương lai nhất định sẽ trở thành rồng phượng tung hoành giữa trời xanh!”
Trong lúc đó, ở Đại Tướng Quốc tự.
Một lão hòa thượng, một thiếu niên đang ngồi đối diện nhau ở hậu viện, ung dung chơi cờ.
Liễu Trần đại sư chắp hai bàn tay lại, khẽ cúi đầu: “Kỳ nghệ của Tiếu công tử quả thật xuất thần nhập hóa, cao siêu tuyệt trần, lão nạp cam bái hạ phong. (1)”
“Đa tạ đại sư đã nhường bước!” – Khuôn mặt Tiếu Khuynh Vũ thản nhiên đến xót lòng, không vui mừng cũng chẳng bi ai, không giận dữ cũng không u uất, lúc nào cũng tỏ ra bình thản như không, lạnh lùng lãnh đạm. Đó là biểu hiện vẫn thường thấy ở những bậc cao nhân đã kinh qua không ít tang thương mất mát, trầm luân lặn ngụp trong bể phàm trần. Nhưng mà, nơi người thiếu niên chỉ mới mười bảy tuổi kia, cũng toát ra một biểu hiện giống như vậy.
Liễu Trần đại sư không khỏi cảm thấy kinh ngạc: Tiếu Khuynh Vũ thân là Hữu thừa tướng của Đại Khánh, địa vị chí tôn chí quý, tài năng cùng đức độ trác tuyệt danh chấn thiên hạ, lại thêm đa mưu cơ trí, ngày đêm bày mưu tính kế, tận tâm tận lực vì quốc gia, đóng góp rất nhiều công trạng cho đất nước. Một kẻ tuyệt đỉnh thông minh như vậy theo lý mà nói, lẽ ra phải sống một đời phong lưu khoái hoạt giữa chốn nhân gian mới phải, hà cớ gì lúc nào trên mặt y luôn phảng phất nỗi tịch liêu cô quạnh, trống trải mênh mông như vậy?
Nhưng cái khiến cho Liễu Trần kinh hãi chính là, ông cảm nhận được sát khí toát ra trên người Tiếu Khuynh Vũ.
Vô Song công tử thanh khiết như ngọc, thông minh bất phàm, kiến thức lại uyên bác phi thường, từ lâu đã thuộc đến tường tận các pho kinh Phật. Vì sao lâu nay chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp mà sát khí trên người vẫn không hề thuyên giảm, ngược lại càng tăng thêm?
Liễu Trần đại sư cảm khái mà than rằng: “Công tử kinh tài tuyệt diễm, ôn nhu trầm tĩnh, có tầm nhìn xa trông rộng, việc gì cũng thông hiểu tường tận. Nhưng phàm việc gì cũng có thể thấu triệt thì ngược lại, cuộc đời khó mà còn khoái hoạt!” Lão hòa thượng trầm ngâm một lúc rồi nở nụ cười độ lượng nhân từ, “Đôi khi, quá mức minh mẫn sáng suốt lại khiến cho con người ta thống khổ. Con người sinh ra trong cõi trần này luôn mang sẵn trong mình sự mê mộng vọng tưởng, làm sao tránh được có lúc hồ đồ, khó lắm!”
Tiếu Khuynh Vũ cười nhẹ, trong nụ cười có chút chua chát, thần sắc lại càng trở nên cô quạnh tịch liêu: “Ý đại sư nói vậy tức là, Khuynh Vũ phải thuận theo định mệnh, phó mặc mình cho trời cao định đoạt ư?”
“Việc này…”
Tiếu Khuynh Vũ bỗng nhiên cười lớn! Giọng cười tựa như khoái trá châm biếm một chuyện gì đó rất khôi hài.
Rồi tràng cười tắt lịm, ánh mắt lại trở nên bình thản, trong suốt như nước chảy, tinh quang sắc sảo lạnh lùng mà rực sáng như muôn nghìn tinh tú lấp lánh: “Tiếu Khuynh Vũ nếu an phận mệnh trời, thì hôm nay làm gì có Vô Song công tử ngồi ở đây!”
Đối với một kẻ từ nhỏ đã chịu cảnh tàn phế hai chân, không thể đi lại, thì ngay cả việc tự bảo vệ mình mà tồn tại giữa đời này đã là một chuyện không đơn giản.
Chính bởi vì, Tiếu Khuynh Vũ đã không cam lòng nhận mệnh.
Một kẻ bị thiên hạ gọi là ‘Tàn phế’ như y, chẳng những có thể quật cường mà sống, không cần đến ai thương hại, mà còn th