
nhất khi họp hành, tuần nào cũng có hai cuộc họp định kỳ, từ đầu đến cuối chỉ thảo luận làm thế nào để có thể tăng thêm thu nhập. Câu cửa miệng và lời mào đầu của chủ nhiệm khoa là: “Các đồng chí thử nghĩ xem chúng ta còn có thể mở các lớp học theo mô hình nào để tăng thu nhập? Đây là chuyện lớn liên quan đến lợi ích thiết thực của mỗi giáo viên. Đồng thời cũng là chuyện đại sự liên quan đến sự sinh tồn của khoa tiếng Anh chúng ta. Nếu không tăng được thu nhập, khoa sẽ lấy gì để giữ chân mọi người? Mọi người sẽ lấy gì để giữ chân người thân trong gia đình mình?”
Ngải Mễ cảm thấy những điều vị chủ nhiệm khoa này nói rất có vấn đề, nhưng cô lại không thể vạch trần, nghe cứ như hiện nay mọi mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều phải dựa vào đồng tiền để duy trì, nếu anh không có tiền thì người thân sẽ bỏ anh mà đi vậy. Có đúng là như vậy không? Có đúng là dân tộc Trung Hoa đã đến thời khắc nguy hiểm đó rồi không? Hình như chưa đến nỗi thì phải.
Tuy nhiên Ngải Mễ cũng không có thù hằn gì với tiền bạc, cô cũng biết lợi ích của đồng tiền, cô còn biết đồng lương ít ỏi trên bảng lương kia chẳng đáng là bao, ai thèm quan tâm đến số tiền đó chứ. Chẳng phải tất cả đều dựa vào “thu nhập thêm” đó sao?
Từ trước tới nay, mỗi lần ngồi họp với khoa, Ngải Mễ đều như người say sóng, chỉ biết vấn đề mà lãnh đạo khoa phát biểu toàn là “tăng thu nhập, tăng thu nhập”, “mở lớp, mở lớp”, cô cũng chẳng buồn quan tâm đến việc tăng thu nhập như thế nào, mở những lớp gì. Thái độ của cô về các lớp kiểu này là tránh được sẽ cố tránh. Đã vào làm giảng viên trong trường đại học rồi thì phải xác định tư tưởng là nghèo suốt đời, cuối năm cũng chẳng thèm quan tâm đến việc được thưởng mấy tháng lương cho mệt đầu.
Tuy nhiên một lần đi họp, khoa lại không dồn hết thời gian để bàn về vấn đề “tăng thu nhập” mà nói về chuyện “Harvard Yenching”, nói Viện Havard Yenching cho khoa ta một suất, lần này chúng ta phải làm cho minh bạch, cạnh tranh tự do, người nào đủ tiêu chuẩn sẽ được cử đi học, tất cả giảng viên dưới ba mươi lăm tuổi đều có thể đăng ký, tuần sau khoa sẽ tổ chức một buổi thi, thi đọc, dịch, viết, nghe và văn học, giáo sư trong khoa sẽ chấm, tên thí sinh được giữ bí mật. Ai thi được thì người đó đi.
Vừa nghe đến mấy chữ “Harvard Yenching” là tinh thần Ngải Mễ lại sục sôi. Không biết có nên tham gia không nhỉ? Thử sức xem sao? Nếu chỉ dựa vào kết quả bài thi thì cũng ổn. Cổ nhân có câu: Là lừa hay ngựa, phải dắt ra xem. Xem ra cũng phải dắt mình ra xem sao.
Các giáo viên trẻ trong khoa đều nói: “Ngàn năm có một, ngàn năm có một!” Không phải nói suất học bổng của Harvard Yenching là ngàn năm có một mà ý muốn nói rằng, ngàn năm mới có dịp khoa tổ chức thi minh bạch như vậy, vì trước đây có suất đi học ở đâu đều là khoa giới thiệu hoặc tính theo thâm niên công tác, lúc nào cũng kín như bưng, những kẻ vô danh tiểu tốt như Ngải Mễ không phải là vợ chủ nhiệm khoa, cũng chẳng phải con gái của giám đốc nhà xuất bản trường Đại học R, chắc chắn là không đến lượt, thế nên lần này Ngải Mễ quyết định tận hưởng tính minh bạch của khoa và thế là đã đăng ký.
Đăng ký rồi cô lại thấy lo, nhỡ mình không thi được thì biết làm sao? Nếu một ngày nào đó Allan muốn đến tìm mình, trong khi mình lại sang Harvard Yenching thì khác gì núi sông cách trở? Hơn nữa một người có lòng tự trọng cao như anh ấy, không được sang Harvard học trong khi mình lại được sang, liệu anh ấy có vì chuyện đó mà bỏ cuộc hay không? Có lẽ tốt nhất là mình nên giữ tấm thân trong sạch, không dính dáng gì đến vết nhơ học Harvard thì hơn.
Nhưng rồi cô lại nghĩ, đã thi cử gì đâu, nếu thi cũng chắc gì đã đỗ, việc gì phải lo sớm như vậy. Cùng lắm là đỗ rồi nhưng không đi, như thế cũng vẻ vang biết bao. Giành được suất học bổng của Harvard Yenching dĩ nhiên là tự hào rồi, nhưng nếu thi đỗ mà không đi học lại càng tự hào hơn chứ.
Hơn nữa Allan đã từng hứa với cô rằng không bao giờ kết hôn trước cô, không bao giờ có người yêu trước cô. Dĩ nhiên lời thề này là do cô ép anh nói nhưng dù gì anh cũng thề rồi, anh đã hứa điều gì thì chắc chắn sẽ thực hiện.
Trong năm nội dung thi, thế mạnh của Ngải Mễ là đọc, dịch và nghe nói.
Đọc là thế mạnh do từ lâu các bài đọc trong tiếng Anh đã có kiểu thi trắc nghiệm. Ngải Mễ rất biết ơn người đã phát minh ra kiểu thi trắc nghiệm này, chắc chắc là phát minh cho những người làm gì cũng hậu đậu, vô tâm như cô. Bạn thử nghĩ mà xem, mấy đáp án đều đã đưa ra hết rồi, chỉ cần khoanh tròn là xong, còn việc nào dễ hơn việc khoanh tròn? Đến AQ cũng biết khoanh. Nếu bắt Ngải Mễ viết ra ý chính của bài thì rất có thể cô sẽ lạc đề, có khi lại viết sai mấy chữ cũng chưa biết chừng, nhưng nếu bắt cô lựa chọn một đáp án đã được người khác viết thì kể cả không hiểu, cô vẫn làm được tám mươi, chín mươi phần trăm.
Khi còn đi học, bạn bè cùng phòng đều ngưỡ mộ số cô may mắn, vì có một số đề, bốn câu chọn một, mọi người đều chẳng biết câu nào, toàn đoán mò, trong khi Ngải Mễ toàn mò đúng, còn người khác lại mò sai.