Người Bình Xuyên

Người Bình Xuyên

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 327550

Bình chọn: 9.5.00/10/755 lượt.

Phân vân đôi ngả: Ở, sợ không yên thân, đi thì không đành. Sau cùng cả hai cả hai đành chọn sự sống. Họ ngoéo tay, hẹn đêm ấy, đêm ấy… sẽ theo con nước từ bỏ Rừng Sác để về với Bảy Viễn.

Đêm ấy, Mười Lực ray rứt không tài nào chợp mắt. Đã dứt khoát đi rồi, nhưng sao nghe xốn xang khó chịu? Thành thị có gì hấp dẫn đâu? Cả Sài Gòn Chợ Lớn Mười Lực chỉ thấy có một tòa nhà mang số 69, Larăndie. Hình ảnh xưa cũ như diễn ra lại trước mắt. Từng dọc tù nhân trần truồng như nhộng, quơ tay, múa chân, ẹo đít - trước mặt bọn thầy chú. Đó là điệu múa "Phụng hoàng" để thầy chú khám vàng đen giấu nhét ở hậu môn. Quần áo tù mốc cời, hôi hám cầm tay, chỉ được mặc vào khi múa xong điệu múa kỳ dị quái đản. Mười Lực rùng mình. Dĩ vãng xấu xa đó anh đã vung gươm chặt đứt từ mùa thù năm 45, nay lẽ nào anh lại quay về? Nhưng lão già râu kẽm "quan cách mạng" hàng ngày đang dòm ngó anh. Lão lăm le cây viết hai đầu "sinh, tử" trên tập giấy bìa đen. Chỉ lộn đầu bút là tiêu một mạng người.

Mười Lực cố tìm một lý do để ra đi. Cố tìm thì cũng có. Vợ anh mới vừa chết trước đó, việc ma chay không đúng theo ý anh: Không có ván đóng hòm, dàn kèn của Chi đội bận rộn chuẩn bị về Quân khu, không giúp đưa linh người quá cố. Còn đứa con vắng mẹ, làm sao đây? Không lẽ ôm con đánh giặc? Thế là Mười Lực đã tìm được lý do: Về thành gửi con mồ côi cho bà ngoại. Lý do không vững lắm nhưng cũng tạm giúp người ra đi yên tâm.

Riêng Bảy Môn thì việc đi hay ở không gây ray rứt nhiều như Mười Lực. Anh tin nơi số mạng mình bao giờ cũng được một chữ nhàn. Hồi làm ở hãng đóng tàu Caric ở Thủ Thiêm, anh sống khỏe hơn các bạn đồng nghiệp, có thì giờ rảnh đọc báo "Lao động" của hai tay cách mạng Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Văn Nguyễn. Nhờ vậy mà sớm có ý thức chính trị. Đi kháng chiến lúc nào cũng có Mười Lực bên cạnh. Mười Lực nắm Chi đội thì Bảy Môn nắm đại đội. Bởi sự gắn bó khắn khít đó mà khi Mười Lực quyết định về thành thì Bảy Môn cũng gật theo:

Miệt Ba Giồng coi vậy mà rất gần thành phố Sài Gòn. Chỉ một con nước là tới Phú Xuân Nhà Bè. Ghe Bảy Môn đi trót lọt, nhưng ghe Mười Lực thì gặp bọn "mặt gạch" (Malgache) chặn bắt dọc đường. Anh khai con đau đưa về thành hốt thuốc. Anh bồng đưa thằng nhỏ vừa qua "thôi nôi" mấy tuần cho bọn lính xem nhưng vô hiệu.

Bọn lính được lệnh bắt tất cả những người trong Rừng Sác đi về thành. Mười Lực được giải về bộ chỉ huy. Túng thế anh phải khai thật và xin được liên lạc với Ngài Bảy Viễn càng sớm càng tốt. Thế mới biết định mệnh lá lay và số phận con người như chiếc lá giữa dòng. Mười Lực định "rửa tay gói kiếm" về nhà ở ẩn, nhưng dòng đời lại đưa đẩy về phái Bảy Viễn thêm lần nữa.

Cũng đêm ấy, còn có một người bí mật rút về thành. Người đó là Tư Huỳnh. Sau khi thuyết phục được Mười Lực và Bảy Môn theo yêu cầu của Bảy Viễn, Tư Huỳnh cũng "lui ghe". Nhưng anh không ngờ tên "trạo" của anh chính là người của "ông già râu kẽm". Thế nên thuyền anh cứ loay hoay mắc cạn từ khuya đến sáng để trạm kiếm soát ở các ngã ra vô thành tóm bắt giải về bộ chỉ huy.

Một tòa án quân sự đặc biệt được lập ra. Trên ghé xét xử có Năm Hà, Nguyễn Đức Huy. Trước vành móng ngựa có Tư Huỳnh và một đồng lõa: Ba Bay tức Huỳnh Văn Nên.

Theo lời khai của Tư Huỳnh thì Ba Bay biết hết tất cả nội vụ nhưng không hiểu vì lý do gì mà Ba Bay không khai báo.

Trước tòa, Ba Bay bình tĩnh khai:

- Đúng là tôi biết nội vụ nhờ một sự tình cờ. Đi qua nhà Tư Huỳnh đúng vào đêm ba người ăn nhậu và tâm sự với nhau, tôi biết ba người sẽ về thành nhưng không khai báo. Tại sao? Tôi nghĩ rằng ba người này đều là cấp bộ chỉ huy, ăn học nhiều hơn tôi, họ có lý do nào đó để hành động mà tôi không biết được. Tôi là tay giết người, đã cho đi "mò tôm" mấy chục tên Việt gian nhưng tôi kỵ nhất là cái nghề mật báo. Nó đê hèn đốn mạt, không xứng đáng với người quân tử. Tôi thà lãnh án tử hình hơn đi khai báo ba vị đàn anh mà tôi mến mộ.

Vì thái độ "quân tử Tàu" đó, Ba Bay lãnh án hai năm tù. Phải nói đây là bản án hết sức nhẹ bởi chánh án Năm Hà lại chính là "đại ca" của Ba Bay. Và thiêng liêng hơn nữa là hai người đã thề nguyền đồng sinh đồng tử nơi đình thần Tam Thôn Hiệp bên bờ sống Lòng Tàu…

Tội của Tư Huỳnh nặng hơn. Lãnh công tác địch vận, làm không xong lại trở vô khu kêu gọi hai cán bộ cấp tiểu đoàn và trung đoàn nhảy ra đầu Tây. Bản án tử hình đã thấy trước mắt, khi công tố viên Nguyễn Đức Huy vểnh râu kẽm ra buộc tội. Tư Huỳnh lạnh lùng nói:

- Tội tôi làm, tôi xin chịu. cho tôi xin tự xử…

Nguyễn Đức Huy lắc đầu:

- Không được! Đã có đội hành quyết.

Tư Huỳnh lớn tiếng:

- Các anh biết rõ Tư Huỳnh quá mà! Khi lâm trận, Tư Huỳnh đứng thẳng lưng chỉ huy. Tư Huỳnh không bao giờ tránh đạn mà trái lại, đạn né Tư Huỳnh. Bây giờ trước khi chết, Tư Huỳnh xin anh Năm cho một đặc ân cuối cùng: cho tôi tự xử. Lúc sống mình là anh hùng hảo hơn thì lúc chết, mình cũng phải anh hùng hảo hớn.

Năm Hà chưa biết tính sao, Nguyễn Đức Huy đã ra lệnh thì hành bản án.

Tòa án tổ chức tại Hàng Điều, Bàu Bông, điều mọc như rừng trên vùng cát trắng nóng bỏng dưới ánh mặt


XtGem Forum catalog