
ền viễn dương của thời hiện đại, nhưng ở thời này cũng coi
như cực lớn. Mạc Hi đứng trên sàn thuyền nhìn phong cảnh đủ rồi, không muốn
đứng trong gió lạnh gào thét nữa, liền vào trong khoang thuyền. Soái ca ‘tự
nhiên’ cũng đi theo vào.
Bên trong lại có một ông lão
tóc trắng xóa đang kể cho mọi người nghe về truyền thuyết bến đò Phong Lăng:
"Nghề chèo đò này đò là từ
đời tổ tiên của lão truyền xuống, nay ta lại truyền cho con ta. Thứ khác lão không
biết, nhưng truyền thuyết về bến đò Phong Lăng này cũng có biết chút ít. Tương
truyền bến đò Phong Lăng cũ có Huyết Lệ Thạch (đá máu và nước mắt) của đệ nhất tể tướng Sở Thương bổn triều. Sở
Thương vốn là đại Tư Mã (hai chữ Tư Mã từ
đời nhà Chu được dùng để gọi một chức quan võ coi tất cả các việc binh trong
nước, tức là chức Binh bộ Thượng thư đời sau) của tiền triều Kinh, thê tử
của hắn vì có dung mạo chim sa cá lặn, trong một lần cung đình có yến hội cho
phép những mệnh phụ bên ngoài vào yết kiến, bị vị quốc quân đời thứ hai của
tiền triều là Mộ Dung Chấp nhìn trúng, cường nạp làm phi. Nàng này tính tình
cương liệt, thề chết không theo, Mộ Dung Chấp liền phái người đuổi giết Sở
Thương, cho rằng nếu trượng phu nàng chết nàng sẽ thay đổi tâm ý. Sở Thương một
đường đêm đi ngày trốn, cuối cùng tới sông Mân, bi phẫn rơi lệ nôn máu trên
tảng đá lớn bên bờ bến đò Phong Lăng. Sau đó trải qua phong sương tuyết vũ, màu
đỏ sẫm trên tảng đá này không phai. Sở Thương sau khi qua sông đã ra tây lĩnh
quan, chạy trốn tới tiểu quốc Nghiệp (tên
đất thời xưa, ở phía bắc An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) lân bang. Mấy
năm sau, Sở Thương dẫn dắt Nghiệp binh phá tây lĩnh quan diệt tiền triều Kinh.
Sở Thương còn quật mộ Mộ Dung Chấp, tiên thi (đánh xác chết bằng roi) ba trăm, báo mối hận đoạt vợ."
Mạc Hi âm thầm gật đầu, Nghiệp
lúc trước chính là Nam triều ngày nay, quốc hiệu "Nam" là sau khi
nhập quan mới sửa. Chỉ là Nghiệp vốn rất cằn cỗi, khí hậu lạnh khủng khiếp, nên
sau khi nhập quan, đất cũ bị bỏ hoang. Dần dà mảnh đất này liền bị dân tộc du
mục địa phương chiếm cứ thống trị. Thì ra hoàng đế tiền triều Kinh bị tiên thi
là chuyện như vậy. Không cần phải nói, vị Sở phu nhân khuynh quốc khuynh thành
này lại bị mang danh hồng nhan họa thủy trên lưng. Trước giờ nếu hoàng đế làm
chuyện gì ngu xuẩn hoặc không có đức hạnh, từ sử quan, cho tới dân chúng, đều
thích đổ lên người nữ nhân, thật sự là gán tội cho người khác.
Soái ca ‘tự nhiên’ nghe xong
liền nói tiếp: "Câu chuyện này còn chưa hết. Ngày đế đô Kinh triều đạt
được thành, thái tử công tử Hiểu chạy khỏi kinh thành, lại từ Phong Lăng vượt
qua sông Mân, ra tây lĩnh quan, kỳ thật khi đó còn gọi tần quan, chạy đến biên
cảnh Nghiệp, ẩn náu. Hậu nhân có thơ
Quần sơn vạn hác hợp thành vi,
trường kiếm đông lai nguyện dĩ vi.
Khu mã quan môn bi cố quốc, hồi
đầu chiến lũy cách tà huy.
Dĩ khán giang thượng thiên phàm
quá, mạc nhạ lô trung nhất diệp phi.
Diệc hữu kê minh phương đắc độ,
Tần Quan tuy hiểm cánh năng xuất.
Bài thơ này nói về quá trình
hắn ngàn dặm đào thoát. "Mạc nhạ lô trung nhất diệp phi" là chỉ công
tử Hiểu qua sông Mẫn. "Kê minh phương đắc độ" là nói hắn vốn bị đất
Nghiệp phá thành bắt làm tù binh, thái tử phi của hắn vì để hắn thuận lợi thoát
đi, tự nguyện hiến thân cho Nghiệp tướng lãnh binh ngày đó, người đất Nghiệp đó
liền lén thả công tử Hiểu. Công tử Hiểu trốn tới tần quan, dựa vào một mưu sĩ
giả gà gáy lừa binh sĩ thủ quan mở cửa thành trước, mới có thể thuận lợi thoát
khỏi truy binh xuất quan."
Mạc Hi nghe xong không khỏi có
cảm giác thổn thức vô hạn, cho dù vạn dặm giang sơn này đều là nam nhi đời đời
tương truyền, giang sơn thay đổi lại không thể thiếu hồng nhan dùng máu lệ thân
thể đúc thành. Thầm nghĩ: Soái ca ‘tự nhiên’ om sòm thì có om sòm chút, nhưng
trong bụng trữ hàng thật không ít. Ngẫu nhiên khoe chữ cũng có chút tác dụng.
Mạc Hi ngồi ở góc khoang thuyền
nhắm mắt dưỡng thần. Soái ca ‘tự nhiên’ lúc này thật ra rất thức thời, trong
hai canh giờ đi thuyền không hề nói tiếng nào.
Rời thuyền lên bờ. Trong thời
tiết rét đậm, tuyết rơi phủ đầy núi, người võ nghệ tầm thường căn bản không thể
lên Thục Sơn, càng không cần phải nói người đến bái sư học nghệ. Nên những
người trên đò này đều là đi tới thôn trấn gần đó.
Trước khi đến Mạc Hi đã sớm xem
bản đồ. Sau khi cập bờ chạy dài vài trăm dặm đều là rừng sâu núi thẳm, không
thể tìm nơi ngủ trọ. Nếu muốn tìm chỗ an thân qua đêm như vậy trước khi trời
tối nhất định phải tìm được nhà nông dân nào đó đồng ý cho ở nhờ.
Chỉ là hai người họ đã đi rất
lâu, cũng sắp qua giờ cơm vẫn không thấy một luồng khói bếp nào.
Soái ca ‘tự nhiên’ đề nghị bắt
chim thú hoang ăn no bụng trước rồi tính. Mạc Hi không có ý gì khác, tự đi săn
hai con thỏ tuyết. Khi trở về thấy soái ca ‘tự nhiên’ đã nhóm lửa lên. Lúc này
hắn cực kì có phong độ thân sĩ, chuyện kế tiếp đều không cần Mạc Hi động thủ,
hắn một mình ôm lấy mọi việc.
Chỉ thấy hắn từ trong lòng lấy
ra một cái bình ngọc lưu ly nhỏ cỡ lọ thuốc hít,