
ương, nhưng không thể dẫn đến thổ huyết, thổ huyết chứng tỏ đã dùng sai phương pháp.
Lục Kiều Kiều nhìn An Long Nhi, nói tiếp: "Trung thu thời điểm chuyển giao từ nóng sang lạnh trong một năm, mặt trời là dương tinh, mật trăng là âm tinh, vào Trung thu khi mặt trăng tròn nhất, chính là lúc âm khí thịnh nhất, khi ấy trăng tròn đã quá bầu không, là canh ba khắc cuối, âm hàn tới cực điểm. Huyết trong Dịch quẻ là quẻ Khảm thuộc Thủy, tiết Trung thu thuộc Kim, cây Kim châm đại phu dùng cũng thuộc Kim, Kim sinh Thủy quá mức mới dẫn đến thổ huyết, nhưng trong cơ thể người bình thường có ba ngọn chân hỏa, âm dương cân bằng dương khí không thể yếu đến mức không chống đỡ nổi một cây kim, có thể thấy cơ thể những người này đã tích hàn khí tới mức sắp chết..."
Lục Kiều Kiều thấy An Long Nhi chăm chú lắng nghe thì tiếp tục nói: "Hàn khí thâm nhập lục phủ ngũ tạng khiến chân tay cứng đờ, thâm nhập não tủy khiến người trở nên điên loạn, vì vậy đầu tiên dân nữ dùng Cửu Tự ấn quyết thổi bùng đống lửa sinh kết giới, chặn đứng hàn khí của ánh trăng và thời tiết xâm nhập vào sân; đồng thời sưởi ấm tăng cường dương khí cho người bệnh, cuối cùng dùng que ngải châm lửa, vẽ linh phù Hỏa Đức Tinh Quân xong thì cứu vào huyệt đạo, đả thông kinh mạch toàn thân từ dưới lên trên, ép âm hàn tà khí ra qua đường miệng..."
Mạnh Hiệt vỗ tay cảm thán: "Tinh diệu tinh diệu... Quả nhiên nắm được lý lẽ đất trời, luận việc có căn cứ, đến khi làm việc thì kín kẽ không chê vào đâu được! Kiến thức của Lục tiểu thư đây là lý học chính tông, quyết không phải đạo thuật giang hồ! Thật khiến Mạnh Hiệt tin phục!"
Lục Kiều Kiều được người hiểu nghề công nhận lòng cũng lấy làm vui sướng, đắc ý khom người nói với Mạnh Hiệt: "Mạnh sư gia quá khen rồi, những vấn đề xuất phát từ phương thuật huyền học mới có thể dùng huyền thuật ứng phó, còn nếu thật có bệnh thì vẫn phải mời đại phu chữa trị."
Mạnh Hiệt lại hỏi: "Cuối cùng, Lục tiểu thư bắt đầu cứu người ở phía Đông trước, sau mới đến phía Nam rồi Tây, Bắc, có phải cũng có huyền cơ gì chăng?"
Lục Kiều Kiều cười nói: "Mạnh sư gia quả là người tinh ý. Như ban nãy đã nói, bệnh này do âm hàn tích tụ trong tạng phủ, mà khí âm hàn không Kim thì Thủy. Sau khi dân nữ sưởi ấm cho người bệnh, bắt đầu tiến hành cứu chữa từ phía Đông là thuận theo thuyết ngũ hành tương sinh, Thủy sinh Mộc nên thủy khí gặp tổn mộc khí được lợi; Mộc lợi ắt hỏa vượng, vì Mộc có thể sinh Hỏa; mà Hỏa vượng..."
"Thì có thể xua đuổi âm hàn! Quả nhiên có huyền cơ... chậc chậc..." Mạnh Hiệt tỏ ý khen ngợi.
Lục Kiều Kiều nhìn An Long Nhi, nói tiếp: "Trong thuật phong thủy, chế ngự không bằng hóa giải, có thể ôn hòa làm suy giảm thủy khí, hóa hại thành lợi, vẫn hơn là trực tiếp khắc chế."
An Long Nhi nghiêm túc gật đầu.
Hà đại nhân và hai vị sư gia đều tấm tắc khen ngợi, lại rót thêm lượt rượu nữa, mọi người cùng cạn một chén xong, Hà đại nhân nói với Lục Kiều Kiều: "Lục tiểu thư, Hà mỗ gặp được vị thần tiên sống như tiểu thư thì chuyện này có cơ cứu rồi..."
Lục Kiều Kiều đã biết sẽ có màn này, chỉ là đợi xem nên khước từ hay kiếm món hời mà thôi.
Ba năm thanh tri huyện, mười vạn bạc tuyết hoa, Hà đại nhân chắc cũng giắt túi được không ít bạc, có cơ hội đương nhiên phải san sẻ bớt với ông ta, cứu tế cho cái nghèo của mình. Hơn nữa, tính hiếu kỳ của kẻ học đạo cũng khiến Lục Kiều Kiều không thể không nghe tiếp. Cô thực sự muốn biết căn nguyên của chuyện này.
Hà đại nhân thoáng trầm ngâm, đoạn nói: "Chuyện này bắt nguồn từ sự bất hòa giữa hai gia tộc lớn ở đây, cũng đến hơn một năm rồi, hai bên đều phải chịu thương vong, huyện thái gia ta đã hòa giải nhiều lần, nhưng đều... Nói ra thì dài lắm, một năm trước..."
Cách Thanh Thành mười dặm về phía Nam có núi Kê Đề (gà gáy), thế núi sừng sững, đỉnh núi trùng điệp, từ xa nhìn lại tựa như một con gà trống khổng lồ cao ngạo ngó xuống nhân gian.
Dãy Kê Đề có một con suối chảy từ đỉnh núi xuống, ngoặt mấy vòng giữa lưng chừng núi, cứ chảy rồi lại ngừng, chảy rồi lại ngừng, kết thành vô số đầm nước ngọt, cuối cùng hình thành một dòng suối nhỏ chảy xuống thôn trang và đồng ruộng dưới chân núi, làm tươi tốt cả một vùng.
Dưới dãy Kê Đề có thôn Ôn Phượng và thôn Thượng Cát, nằm bên bờ Đông và bờ Tây con suối, nhờ đất đai màu mỡ dưới dãy Kê Đề mà xưa nay hòa hảo vô sự. Nhưng hậu nhân của hai thôn có một số nhà dần dần phất lên, từ nông dân trở thành thương nhân, còn có vài người mở phường lập xưởng ở Thanh Thành, trong thành vì thế xuất hiện hai gia tộc lớn - Ôn gia và Lương gia.
Một năm trước, Lương gia của thôn Thượng Cát phát hiện việc làm ăn của gia tộc mình bỗng chốc sa sút, các cửa tiệm nhà họ Lương lần lượt bị đóng cửa. Bọn họ vốn nghĩ rằng do thời thế khống tốt, hoặc việc kinh doanh xảy ra vấn đề gì, nhưng đến mùa thu lại phát hiện ngay cả điền sản cũng giảm mạnh, thế này thì buộc phải nghi ngờ còn có nguyên nhân nào khác.
Người nhà Lương gia thôn Thượng Cát lại trông sang thôn Ôn Phượng, tuy chỉ cách nhau có một khe suối, nhưng thôn Ôn Phượng buôn bán ngày một khấm khá, điền sản cũng bội th
Cùng chuyên mục
Chuyện được yêu thích
-
KHI........TIỂU THƯ VÀ HOÀNG TỬ ĐI HỌC Zenny Nguyễn (Gấu Sociu or Gấu Sociu's) Truyện kiếm hiệp