
. Tôi thấy mắt cô đen láy, và đôi mắt đó lúc này đang mở rất to, dĩ nhiên là cô cũng rất kinh ngạc, hẳn vì đã lâu cô không thấy bóng người lai vãng ở khu vực này.
Thái độ ông Tám Tàng lập tức thay đổi khi cô con gái bước ra.
Như bị ai chùi, vẻ giận dữ trên mặt ông biến mất không còn một dấu vết, và khi nói tiếp câu thứ hai thì ông đã kịp tròng vào mặt vẻ tôn nghiêm của một đức vua:
- Ngươi yết kiến trẫm có việc gì?
Tôi đực mặt ra một lúc. Vẻ ngẩn ngơ của tôi chỉ tan đi một nửa khi tôi thoáng thấy cái nháy mắt của ông, rồi tan nốt phần còn lại khi tôi ngờ ngợ đoán ra ông muốn gì.
Tôi không chắc lắm sự phỏng đoán của mình, nhưng vẫn nói, hết sức cung kính, đầu cúi thấp:
- Muôn tâu bệ hạ, thần đến đây…
Đột nhiên tôi nhận ra mình cũng hóa thành một vai tuồng và ý nghĩ đó khiến tôi dở khóc dở cười.
- Thần đến đây… đến đây…
Tôi bối rối lặp lại, không biết phải bịa ra mục đích gì. Đang phân vân, tôi chợt bắt gặp cái nhìn hiếu kỳ của công chúa, liền nói:
- Thần được biết bệ hạ treo bảng tuyển phò mã…
Tôi mới nói tới đó, ông Tám Tàng chưa kịp đáp, công chúa đã phản ứng ngay. Cô xua tay, rối rít:
- Khỏi, khỏi. Ta không tuyển ngươi làm phò mã đâu. Ta đã chọn phò mã rồi.
- Đúng rồi! - Ông Tám Tàng phụ họa - Trẫm đã kén phò mã cho công chúa rồi.
Thình lình ông hét lớn, tay giơ cao thanh kiếm lên khỏi đầu:
- Ngươi đến đây quấy rầy, trẫm quyết không tha mạng cho ngươi.
Vừa nói ông vừa xông ra khỏi cửa khiến tôi bất giác thối lui một bước, trái tim muốn rớt khỏi lồng ngực.
Ông Tám Tàng nháy mắt với tôi lần nữa trước khi bổ kiếm xuống.
Tôi hơi hoàn hồn khi nhác thấy cái nháy mắt ra hiệu của ông nhưng khi thanh kiếm chém đánh vù qua tai, tôi vẫn phải nghiêng đầu tránh rồi co giò bỏ chạy.
Tôi nghe tiếng chân ông Tám Tàng thình thịch phía sau, tiếng lưỡi kiếm chém soàn soạt vào cây lá, và tiếng của ông nữa. Ông vừa khua thanh kiếm vừa quát:
- Chạy đi đâu! Trẫm đã ra tay thì ngươi đừng hòng thoát!
Phía trước, tôi vẫn chạy vắt chân lên cổ. Cho đến lúc đó, tôi không biết những cái nháy mắt của ông là tín hiệu của người tỉnh hay là dấu hiệu của người điên.
Tôi chạy cuống cuồng, miệng thở dốc, ngực áo phồng lên xẹp xuống gấp gáp, chỉ hãm đà phi lại khi nghe tiếng ông Tám Tàng cất lên sau lưng:
- Dừng lại đi con! Bác chỉ giả vờ thôi!
Giọng ông lạ hoắc, như mượn của ai. Và tôi không còn nghe tiếng chân ông nện lên mặt đất nữa.
Khi tôi quay mặt lại thì ông Tám Tàng đã không còn giống đức vua nữa. Cái vương miện rơi mất tự lúc nào. Tấm khăn choàng cũng không còn trên cổ. Tóc ông xổ tung, rối bời, đỏ và vàng – như rơm khô. Chiếc áo dài trắng nhìn gần đã ngả sang một màu rất khó gọi tên, nó nằm giữa màu mỡ tra bánh xe và màu khói thuốc, và có vẻ được may từ một tấm drap giường cũ kỹ, càng tang thương hơn khi nó bị các cành cây đâm thủng và móc rách vô số chỗ trên đường ông đuổi theo tôi.
Trước mặt tôi lúc này, ông Tám Tàng không giống một đức vua đã đành, ông cũng không giống ông Tám Tàng mổ lợn hoạt bát thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy trên đường làng. Trong tia nhìn dò xét của tôi, đó là một người đàn ông nhếch nhác, tiều tụy như vừa thoát ra một đám cháy, nếu là vua thì giống một ông vua vừa bị quân phiến loạn cướp ngôi và truy sát đã nhiều ngày.
- Bác… bác…
Tôi lắp bắp, giương to mắt nhìn người đàn ông lúc này đã đứng gần đến mức tôi nghe rõ cả tiếng thở hổn hển của ông.
Ông Tám Tàng chống thanh kiếm xuống đất, thở dài sầu não, bây giờ tôi đã nhận ra thanh báu kiếm của ông chỉ là một cây kiếm gỗ được sơn phết sặc sỡ nơi chuôi, giống như đồ chơi của trẻ con:
- Con gái bác mắc bệnh ngớ ngẩn. Kể từ ngày nó bị té trong rạp xiếc…
“Con Nhi!”, tôi sửng sốt kêu lên trong đầu.
Tôi biết con Nhi con ông Tám Tàng.
Nó bằng tuổi với thằng Tường nhưng học sau em tôi một lớp. Cách đây ba năm, đoàn xiếc mô tô bay về dựng rạp ở sân trường làng, con Nhi mê tít, nửa đêm trốn khỏi nhà chạy tới chỗ đoàn xiếc xin làm chân quét dọn (chỉ với mơ ước ngày nào cũng được coi xiếc không tốn tiền), bị ông Tám Tàng rượt theo bắt lại.
Các đoàn xiếc ít khi về diễn ở làng tôi vì người xem không đông bằng trên huyện. Năm đó, đoàn xiếc về làng là nhờ chú Đàn năn nỉ. Chú quen biết với ông trưởng đoàn, người rất mê tài thổi acmônica bằng tay trái của chú và năm lần bảy lượt đề nghị chú gia nhập đoàn của ông nhưng lần nào chú cũng từ chối, với lý do phải ở nhà chăm sóc bà nội tôi.
Rạp xiếc mô tô bay giống như một cái lồng hình trụ, bằng ván, cao khoảng mười mét hoặc hơn nữa, phía trên có mái che bằng vải bạt để khán giả tránh nắng. Chung quanh miệng lồng là một bao lơn cũng bằng ván được chống đỡ bằng các cây cọc và có cầu thang hình xoắn ốc để khán giả leo lên bao lơn đứng xem.
Đám trẻ làng tôi rất mê xiếc mô tô bay. Khi chà