
Khi bà mẹ cậu học sinh đi rồi, Văn Cám thấy Mỹ Xuân hoảng hốt bèn hỏi:
“Em sao vậy?” Dạo này nó đã hiên ngang gọi cô ấy bằng ‘em’.
“Không sao cả, anh cút ra khỏi nhà tôi ngay, đồ quỷ sứ, đừng để tôi gọi người nhà của tôi đuổi anh về.”
“Anh có làm gì đâu mà em nỡ lòng nhẫn tâm đành đoạn gọi anh là quỷ sứ như thế?” Hắn than thở có vẻ rất vọng cổ.
“Anh ra tìm thằng quỷ đầu đỏ ở gốc cây da xà, gò Bà Bậu mà hỏi nó?”
“Thằng quỷ nào? Anh có biết gì đâu.”
“Cút đi, nó đang đợi anh đó.”
Nói xong cô ngoe nguẩy ra nhà sau, phụ làm bếp với Mỹ Đông và giặt giũ thau quần áo của hai em trai cô hôm nay qua làng chài để phụ đóng ghe.
Còn lại một mình, Văn Cám lòng dạ rối bời, cõi lòng tan nát không hiểu chuyện gì làm cho tim nàng hôm nay trở thành băng giá (lúc nào hắn cũng nhập vai thành nhân vật trong cải lương được hết). Hắn định quay về nhà ở xóm Nhãn, sau đó đổi ý, hắn đi thẳng đến nhà bà mẹ đưa tin. Hắn không gặp bà mẹ nhưng lại gặp chính thằng bé học trò. Nó kể lại cho hắn biết câu chuyện sau khi hắn dúi cho nó ít xu. Nghe xong hắn quyết định đi tìm con quỷ muốn phá hoại tình yêu của hắn với Mỹ Xuân. Phần thằng bé không dám đem tiền đi mua quà ngay, nó nhét mấy xu dưới tờ giấy hồng đơn trên bàn thờ, ngày hôm sau nó mới lấy ra mua bánh tráng tráng kẹo và me ngào đường mà nó vẫn thèm được ăn.
Văn Cám đến chỗ cây da xà trong chưa đầy nửa giờ. Không một bóng người ngoài tiếng gió xào xạt và ve sầu rên rỉ. Hắn tự nhủ:
“Ma với quỷ, chuyện vớ vẫn như thế mà tin. Lại còn đầu đỏ với đầu đen.”
Hắn định đi thêm một vòng quanh cây rồi về. Bỗng nhiên hắn thấy nổi trên vỏ cây xù xì một đường dài tím đen và khô quánh lại như vệt máu. Đứng sát vào thân cây hắn thấy có hai “ống tre” màu trắng giữa đám lá rậm, nhưng không biết là cái gì. Lúc đó có một bác nông dân đi qua đó, Văn Cám gọi lại nói:
“Bác kia lại coi cái gì trên cây này…”
Bác ta từ từ tiến lại gốc cây. Sẵn có cây tầm vông dài mà bác vác về nhà để chằm vào vách lá, bác ta gạt đám lá qua một bên để lộ ra bên trên bộ xương người trắng hếu của Bảy Long, và hai ống tre màu trắng chính là hai ống quyển của bộ xương. Bác ta kêu lên thảng thốt:
“Trời ạ, một bộ xương người đang ngồi trên cây.”
Bác ta rút cây tầm vông lại chạy ra xa gốc cây năm sáu bước. Văn Cám cũng thấy bộ xương và nhận ra ngay là bộ xương của Bảy Long vì cái khăn rằn có khâu một mảnh vải đỏ còn đeo quanh cổ. Hắn nói với bác nông dân:
“Này đừng báo cho ai biết chuyện này nhé, đó là bạn của tôi bị Tây bắn tưởng mất xác nay mới tìm thấy.”
“Ai nói làm gì, thôi tôi về đây tự chú em lo liệu.”
“Để cây tầm vông lại cho tôi mượn.”
“Như vậy tôi sẽ không dùng được nữa vì nó đụng vào xác chết.”
“Vậy bán lại cho tôi nhé, tiền đây lấy đi .”
“Thôi cũng được, tôi chỉ mất công mua lại cây khác.”
Còn lại một mình, Văn Cám leo lên một cây bên cạnh có cành hướng vào chỗ bộ xương. Anh ta dùng cây tre xeo cho bộ xương ngã xuống, sau đó giấu vào một chỗ khác gần gốc cây, bẻ lá phủ lại rồi quay về báo cho Mỹ Xuân, Mỹ Đông, Ngọc Thu, người nhà và một đệ tử học võ của Bảy Long biết. Họ đợi khi trời thật tối đem xương ấy vào chùa để chôn trong đất chùa. Ngày hôm sau làm tuần thất nhật cầu siêu cho người chết.
Từ lúc biết tin chồng chết, Mỹ Xuân khóc lóc thảm thiết, đầu tóc xổ tung phủ phục dưới đất kêu trời. Văn Cám phải an ủi và xin đừng khóc lớn, dễ làm kinh động làng xóm và mấy thằng lính làng theo Tây. Bấy giờ, Mỹ Xuân chỉ còn biết sùi sụt nức nở.
Trong bảy ngày cầu siêu, Văn Cám luôn có mặt bên cạnh Mỹ Xuân và người thân của nàng. Nhân dịp này để cởi mở tâm sự và làm khuây khỏa Mỹ Xuân, Văn Cám kể lại cho Mỹ Xuân nghe mối tình đầu éo le của mình (hoàn toàn do tưởng tượng dựa vào một kịch bản cải lương mà hắn rất thích) với Kim Thản vì nhan sắc của cô này đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong tâm hồn hắn. Mỹ Xuân tò mò hỏi:
“Vậy ra có một mối tình tay ba giữa anh, Kim Thản và Lê Bát, giống chuyện Táo quân?”
“Gần như thế, nhưng không một người nào chết trong lửa rơm cả vì sau cùng anh đã rút lui nhường chỗ cho hai người ấy.”
“Vậy anh cũng cao thượng quá hả.” Mỹ Xuân nói có pha chút mỉa mai.
“Không cao thượng đâu mà chỉ vì anh thương cả hai người.”
“Thương cả hai người sao?”
“Chứ sao, như hiện nay anh thương cả anh Bảy Long lẫn Mỹ Xuân và lần này anh quyết sẽ không lui bước.”
Mỹ Xuân giả vờ không nghe câu cuối bước nhanh vào cổng chùa. Trong khi nghe bảy nhà sư tụng kinh cho người chết, Văn Cám nhận thấy giọng một nhà sư xướng kinh kinh có nhiều chỗ giống giọng ca bài vọng cổ. Vào ngày cuối trong lúc Mỹ Xuân ra sau chùa cắm nhang vào mộ của Bảy Long làm bằng đá tổ ong, Văn Cám nói ra nhận xét của mình cho vị sư trụ trì. Ông này nói:
“Chú em nhận xét đúng đấy vì khi Cao Văn Lầu viết bài Dạ Cổ Hoài Lang, ông ấy đã trải qua một mối tình ngang trái đến nỗi phải vào chùa tu hành một thời gian. Có lẽ vì thế ông Lầu đã chịu ảnh hưởng của nghệ thuật tụng kinh Phật giáo khi soạn bài đó.”
“Thế nhưng phải có những điểm khác nhau chứ.” Văn Cám hỏi.
“Dĩ nhiên cả hai giống nhau ở cái bi thương nhưng khác nhau ở chỗ: cái bi c