
) và hai nước đàn anh đều là bạn hữu tốt của miền Bắc (?!).
“Sự tự tin này của Phật giáo hơi quá đáng và rất chủ quan vì tập đoàn lãnh đạo miền Bắc phần lớn là con cháu Văn Thân thế mà bây giờ họ đã cho đập phá đình chùa miếu mạo ngoài đó theo đúng chủ nghĩa Mác-lê thì dân tộc và Phật giáo đáng xá gì với họ. Chú Võ Tấm cho rằng cách suy nghĩ đó của Phật giáo là rất trịch thượng, kiêu căng với cả Hà Nội nên chú ấy gọi mấy ông sư tranh đấu là bọn ‘kiêu binh đầu trọc’. Tuy nhiên chú ấy lại nói, ‘Lúc này bọn kiêu binh ấy cũng làm được nhiều việc cho đảng ta.’
“Nhưng khi tạo ra một thế chân vạc mới,” Huy Khang kể tiếp lời giảng giải của Văn Tấm, “mà PG gọi là thành phần thứ ba hoặc một danh xưng nào khác, thực tế họ phải rút bớt nội lực của miền Nam và làm miền Nam suy yếu: Đảng ta chỉ tranh thủ điều này nhưng dứt khoát không cho PG trở thành một lực lượng chi phối đường lối của đảng. Mục tiêu của đảng vẫn là mở rộng biên địa của chủ nghĩa CS từ Mạc Tư Khoa qua Bắc Kinh đến Hà Nội vào Nam, nghĩa là vẫn phải chiếm trọn miền Nam để thống nhất và đảng sẽ lãnh đạo cả hai miền Nam-Bắc, kết thành một chuỗi với hai nước đàn anh bao vây chủ nghĩa đế quốc tư bản toàn cầu”
“Vậy phải chăng anh em mình giúp PG đấu tranh trở thành một thế lực lãnh đạo trong Nam chủ yếu là để làm suy yếu miền Nam nhưng dứt khoát ta không làm cho PG lớn mạnh đủ để chống lại hoặc chi phối đảng ta?” Mạnh Cường hỏi.
“Đúng, chú Võ Tấm có dùng hình ảnh Sàigòn là một cái cây to chắc, ta giúp cho một cây cổ-thụ-tầm-gửi khác được mọc sát bên, vừa chia bớt chất nuôi cây trong đất, vừa hút bớt nhựa non của cây-Saigon để cây-Sàigòn bị teo tóp, đó là chưa nói vô số con sâu ‘phản chiến’, ‘chủ bại’, ‘quy hàng’, ‘yếm thế’, ‘hưởng lạc’ từ cây tầm gửi sẽ bò qua cây-Sàigòn kia cắn phá, lúc đó ta sẽ dễ dàng cưa nó thậm chí với cái cưa cùn nó cũng đổ. Để kéo cây về làm củi ta cũng sẽ chặt luôn cây tầm gửi. Lúc đó giấc mộng chi phối toàn Miền Nam của Phật giáo để thương thuyết với Hà Nội sẽ tan thành mây khói.”
“Chú Võ Tấm còn nói thêm gì không?” Mạnh Cường hỏi.
“Chú ấy nói phong trào Phật giáo nổ ra đúng lúc, vì ta đang thất thế ở khắp các mặt trận. Nhờ có PG nổi lên vì tham vọng muốn lãnh đạo Miền Nam mà lực lượng của ta sẽ gượng dậy và sẽ chiến thắng. Chú ấy kết luận mệnh trời đang phù hộ cho đảng ta vì với Phật giáo nổi dậy, miền Nam đang tự đào hố chôn mình. Và anh em chúng ta phải nhớ mình đang chiến đấu cho đảng chứ không phải cho Phật giáo”
Lúc ấy có một con chim bồ câu vỗ cánh bay ngang qua quán kêu lên mấy tiếng như muốn góp lời, “Không phải là mệnh trời đâu, mệnh quỷ đấy. Các người đang ngạo nghễ thách thức Đấng Tối Cao khi giờ Ngài chưa đến,” cùng lúc, nó ỉa trên mặt bàn một bãi phân to bằng hạt bắp nửa trằng nửa đen, trong khi Khả Thúy hỏi:
“Sau này khi đảng ta chiến thằng, hẳn anh sẽ trở thành một Hòa thượng phục vụ cho đảng?”
Mạnh Cường khẳng định với giọng điệu đại ngôn và hoang tưởng:
“Không hẳn thế đâu, các em cứ yên chí đi, anh không tin vào ông Phật huống hồ là Giáo hội rất tự mãn bởi bề dày truyền thống của nó ở Việt Nam. Tới ngày đó, các em sẽ thấy anh sẽ mặc áo bốn túi, phì phà điếu thuốc xì-gà Cuba hoặc nhâm nhi ly rượu Vokka bên cạnh chị-Dung-của-hai-em.”
Mạnh Cường cười đắc ý vì đây là lần thứ hai anh chàng biết được Khánh Dung đã thầm yêu mình trước ngày ra Huế trọ học. Mạnh Cường nói tiếp trong lúc Khả Thúy và Huy Khang cùng nhìn nhau cười duyên:
“Trong chùa anh biết sư trụ trì không bao giờ tiếp người nghèo, ông chỉ tiếp người giàu sang phú quý. Có lần anh lân la đến gần hai chú tiểu quanh năm ở nhà bếp và nhà kho làm việc quần quật ít khi được nghe thầy giảng kinh để hỏi lý do sư trụ trì xa lánh người nghèo. Một chú tên Giải nói:
“Sự đời cũng thế, người ta ‘Phù thịnh chứ mấy ai chịu phù suy’, nếu gia đình tụi em giàu có, thăm viếng quà cáp cho sư thầy nhiều, tụi em đâu vất vả như vầy.”
Chú kia tên Đãi nói:
“Nhưng thầy cũng theo đúng Phật pháp chứ bộ…” hai chú tiểu Giải và Đãi quên sự có mặt của anh quay ra cãi nhau.
“Sao gọi là đúng?”.
“Này nhé: Giàu sang thiện nghiệp có dư/ Nghèo hèn ác nghiệp khư khư theo mình, Chú Đãi nói, còn nếu lấy lẽ sắc-không mà nói thì người giàu sang là sắc sắc, không không, SẮC; còn người nghèo khó là không không, sắc sắc, KHÔNG. Chú thấy chưa, người giàu sang thì sắc tiền, sắc bạc lấp lánh, còn người nghèo là không có gì hết hoặc có không-tính-đen-thui như nhọ nồi đừng hòng diện kiến sư thầy.”
“Phật pháp đâu phải vậy chú,” chú Giải nói.
“Phật pháp không phải vậy mà thực tế là như vậy,” rồi chú Đãi ngâm mấy câu thơ khẩu khí:
Sư nghèo không kiến bích toạ thiền
Bếp núc nhà chùa nấu với chiên;
Tất bật nhọ nồi thành râu rậm,
Mới hay không tính đã hiện tiền
Nghe Mạnh Cường kể lại chuyện trong chùa, Khả Thúy và Huy Khang đều nhăn mặt cười hỏi:
“Làm sao anh thuộc bài thơ này vậy.”
“À, anh mượn cuốn vở đầu tiên của thi phẩm Loạn thiền thi tập của chú Đãi chép lại mấy bài để đọc chơi nên thuộc. Nhiều bài cũng có ý vị mỉa mai và thâm trầm lắm.”
Cuối cùng, Huy Khang thông tin một vài chuyện