
toàn có thể tránh được sự oanh kích của máy bay. Vả lại sau trận Mậu Thân số quân trong đó không còn được bao nhiêu.
Khánh Loan đã trở lại trường đại học, và vẫn nhận được thư của Huỳnh Hiển gởi ra đều đặn. Ngọc Thu mẹ nàng trở thành một thiếu phụ buồn rầu không còn vào cứ nữa. Cơ sở làng Rí bị phá tan, nàng không có việc gì để công tác, vả lại nàng đã hoàn toàn thất vọng, đúng hơn là tuyệt vọng, từ sau vụ Mậu thân. Ngoài việc buôn bán, chờ tin Khánh Dung mà đến nay vẫn chưa có tăm hơi, thăm gia đình của người chồng quá cố và nhớ thương Đức Lai ngoài Côn đảo, nàng không còn làm gì khác. Thậm chí có những lúc nàng thấy tâm hồn mình trống rỗng lạ lùng, một nỗi trống rỗng xót xa đến đau đớn làm nàng không chịu nổi. Những lần như thế nàng lại nhớ đến lời mời đến nơi ở của Châu Phu nhân trong giấc mộng.
Có nhiều dấu hiệu một trận lụt lớn sẽ quét qua làng Rí vì đã hai ngày trời mưa liên tiếp.
Sáng hôm đó, một bà cụ đến chỗ Ngọc Thu bán hàng mua nửa ký cá khô rồi ngồi lại nhẩn nha nhìn mưa rơi và nói chuyện với nàng, bà cụ nói:
“Hồi đó dì tưởng chết nhưng rồi dì không chết, dì lại sống. Con biết không hồi đó dì mới ba mươi tuổi còn trẻ măng, chồng của dì đi làm ruộng thuê về úp cái nón lá trên mái chòi rồi ổng nói với dì, ‘Hôm nay tôi giết chết hai con rắn bằng cái cuốc len nhưng tôi chỉ tìm thấy có một cái đầu để đem chôn, tôi lo quá…’ Dì nói, ‘Tính ông hay lo đấy thôi.’ Sáng hôm sau dì ra lấy cái nón cho ổng ra ruộng, và cái đầu con rắn không tìm thấy cắn dì rồi dì ngả xuống như một trái cây chín muồi rụng xuống. Chồng dì và ông thầy trị rắn cắn tưởng dì đã chết và ổng chôn dì. Nhưng dì đâu có chết vì đầu một con rắn phải ăn đất và bò bằng bụng làm sao làm dì chết được; đúng không? Dì sống lại và còn sống đến hôm nay dì mới mua cá khô của con. Bà-áo-xanh sáng láng đó đã nắm lấy tay dì kéo dì ra khỏi giấc ngủ, khi dì mở mắt ra, Bà ấy chùi sạch nước bọt dính ở khoé miệng, dì ngồi dậy thấy Bà-áo-xanh đã lấy chân đạp giập đầu con-rắn-xưa mà trước đó nó đã cắn gót chân bà.”
“Dì không sợ chết sao?” Ngọc Thu hỏi như thể nàng quên ngay bà-áo-xanh, có lẽ vì trong mưa nàng nghe không rõ.
“Không, con sâu trong kén nó đâu có sợ trở thành con bướm đẹp phải không Thu, nó còn muốn nữa?”
“Dạ phải, nhưng con thấy nhiều người chết oan ức ở Huế vừa rồi thân thể họ rửa nát hôi thối làm con rất sợ, đã sáu tháng rồi mà con vẫn còn run sợ và nôn ọe khi nghĩ đến và lòng con bối rối ân hận…”
Bà cụ như không để ý mấy chữ cuối cùng trong câu nói của Ngọc Thu, bà nói tiếp:
“Nó cũng giống như chượp làm nước mắm. Trước khi có nước mắm nhỉ thơm ngon thì cá trong chượp phải thối lên và bốc mùi. Vậy nên người Việt Nam mình mới thờ cúng người chết vì sự thờ cúng đó hướng đến cái tinh hoa của ông bà tổ tiên quá cố, đến cái thiêng liêng đến cái linh quang trong họ, đến những vị thần mà họ sẽ trở thành. Trừ những người độc ác với đồng loại và tự nguyện làm công cụ cho ma quỷ thì dì không nói, còn phần lớn người chết sau một thời gian thanh luyện và nhận ơn cứu rỗi đều sẽ thành thần và sống bên cạnh chúng ta mà chúng ta không biết và không thấy như hiện giờ con thấy dì ngồi kế bên con.”
Lúc đó Ngọc Thu mới chợt nhớ cụ già này không phải người trong làng nhưng cũng không phải là lạ. Cụ giống như bà vợ của lão Thổ khi còn sống. Nhưng một tiếng sấm gầm từ xa trong mưa làm ý tưởng nàng đứt đoạn trong lúc bà cụ nói tiếp:
“Nhưng nè Thu, chỉ có người đạo Chúa (ôi con lạy Ngài!) mới biết Thần Tối cao, thần-của-các-thần mà thôi và chỉ có họ mới có lời cám ơn tối hậu, trong khi người lương chỉ biết cám ơn ông bà cha mẹ hoặc vua hiền và nguyền rủa vua ác. Và thái độ đó có cái gì đó dễ khiến người lương trở nên bạc bẽo với các thần vì quên mất Thần Tối Cao… Nhưng mà thôi, dì phải đi đây có người đang chờ dì cùng đi.”
Bà cụ nói và chỉ tay vào hướng tây trong mưa nơi có dãy nhà phố chợ nằm trên con đường trải đá sỏi dẫn ra bờ sông Nghiệt. Dù cố nhìn qua màn mưa lúc này còn thưa, Ngọc Thu cũng không trông thấy một ai.
Bà cụ đi rồi, nàng lấy gô cơm ra ăn và quyết định dọn hàng về sớm, lòng tự nhủ có nán lại cũng không bán thêm được gì trong buổi chợ chiều mưa dầm ướt át, lầy lội. Mười ngày trước, Khánh Loan đã về nghỉ hè. Sau đó ít hôm gia đình Huỳnh Hiển đã đến xin hỏi cưới Khánh Loan. Cả hai bên thống nhất hè sang năm sẽ tổ chức đám cưới cho đôi trẻ. Tình yêu kiên trì và quảng đại của Huỳnh Hiển sau cùng đã được đáp lại. Hiện tại Khánh Loan ở lại chơi với mẹ; tháng sau sẽ trở lại Đà Nẵng ở nhà bà nội để học cho xong năm cuối trường sư phạm, sau đó là theo chồng.
Thấy mẹ đang cởi nón và áo mưa ngoài hiên nhà, Khánh Loan vội bước ra phụ xách hai giỏ cói đầy hàng vào nhà rồi nói với mẹ vẻ hân hoan:
“Mẹ ơi, chị Khánh Dung đã về rồi mẹ, chị ấy cải trang và dùng căn cước giả làm con không nhận ra…”
“Có thật vậy không con. Con không gạt mẹ chứ?”
“Thật chứ, con đâu dám dối gạt mẹ. Sáng nay lúc mẹ bán hàng ở chợ, chị ấy về nhà kể chuyện với con sau đó gần đến trưa chị Dung nói qua nhà dì Mỹ Xuân tối sẽ về lại nhà mình.”
“Sao chị Dung phải vội qua nh