
khi nào nước đầy cỏ rậm thì còn đỡ, một khi tới mùa thu nước cạn cỏ khô, sự ấm no của bộ tộc bị đe dọa, bọn họ sẽ xua quân xuống miền Nam, băng qua núi Lạc Thiết mà chém giết cướp bóc, khiến dân cư Đại Chu nơi biên thùy cửa nhà bị hủy, gặp hồi chiến loạn liên miên, khổ sở không lời nào tả xiết.
Năm Kiến Nguyên thứ mười vừa khéo xảy ra một cơn đại hạn, ngàn dặm thảo nguyên tươi tốt của người Hách Hách biến thành một vùng hoang vu, vào thu chỉ chừng mười ngày thời tiết đã biến đổi hẳn, trở nên giá lạnh vô cùng, vài ngày sau thì tuyết rơi, băng dày ba thước. Người Hách Hách vì muốn giữ vận nước, duy trì sự sinh tồn của bộ tộc, liền dốc hết quốc lực mà xua mười vạn đại quân đánh xuống miền Nam.
Khi đó Đại Chu cũng đang trong cơn hạn hán, lại vừa phải trải qua mấy năm chinh chiến liên miên, đất nước đang cần có thời gian phục hồi nguyên khí, sức nước suy yếu vô cùng, vấn đề lương thảo ở nơi biên ải khó lòng giải quyết, đã thế lại gặp cơn tuyết lớn, tướng sĩ giữ ải không ai ngờ được giữa trời tuyết lớn mênh mang lại thình lình có mấy vạn thiết kỵ Hách Hách xông ra, thế là tất cả chỉ biết trợn tròn mắt há hốc miệng, ngơ ngác nhìn nhau, để mặc cho vó ngựa của đối phương tràn xuống phía Nam.
Nếu Nhạn Minh quan bị phá, Thượng Kinh e chẳng còn gì che chắn, hoàn toàn hé lộ trước mặt kẻ địch. Thái Tổ chinh chiến mất mười mấy năm mới giành được một mảnh giang sơn gấm vóc, vậy mà tưởng như sắp rơi vào tay lũ giặc man di tới nơi, lập tức lòng người cả nước đều hoang mang khôn tả, thậm chí có người còn khuyên Thái Tổ lui xuống bờ Nam sông Trường Giang, giữ lấy một nửa giang sơn để giằng co với người Hách Hách.
Trong cơn nguy cấp, may mà có Đại tướng Tề Bất Trì chẳng ngại mang tấm thân già nua đã chinh chiến sa trường nửa đời người, khoác áo giáp trở ra chiến trận, với tuổi lục tuần mà vẫn xung phong đi trước sĩ tốt, một mũi tên bắn xuyên qua vai Tế Cách Khả hãn, khiến hắn ngã ngựa, qua đó quét sạch sự ủ dột của tướng sĩ Đại Chu, đồng thời cũng làm cho sĩ khí quân Hách Hách suy giảm hẳn, không còn dám tiến lên phía trước nữa.
Tháng Mười một năm Kiến Nguyên thứ mười, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly lại một lần nữa dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, Tề Bất Trì cầm quân phòng thủ, cho xây dựng tường lũy bên phải cửa quan, đặt tên là Diệt Hách Bình, đồng thời lại chọn nơi hiểm yếu dựng thêm cửa ải, thiết lập đạo phòng tuyến thứ hai, sẵn sàng chờ đợi. Tháng Mười hai cùng năm, Tề Bất Trì và quân Hách Hách giao chiến mấy ngày, rốt cuộc không giữ được, phải lùi về đạo phòng tuyến thứ hai. Tướng sĩ Hách Hách mình mặc giáp dày, dùng móc sắt leo lên tường thành không ngớt, Tề Bất Trì và đệ đệ là Tề Bất Thoái đốc quân tử chiến, dùng cung cứng nỏ mạnh giết chết rất nhiều quân địch, nhưng thế công của đối phương vẫn không suy giảm, Tề Bất Trì sai bộ tướng Mộ Dung Chính dẫn theo một cánh quân tinh nhuệ, dùng đao dài búa lớn tấn công vào hai cánh trái phải của quân Hách Hách, qua đó phá tan nhuệ khí quân địch. Ngày mùng Một tháng Giêng năm Kiến Nguyên thứ mười một, Tề Bất Trì cho đốt núi Lạc Thiết, gõ trống trận vang trời, xuất quân phản kích, lại phái các tướng Vương Hỉ, Vương Vũ tấn công vào đại doanh quân Hách Hách. Đại quân Hách Hách trong cơn kinh hãi đã bˠđánh cho luống cuống chân tay, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly chiến tử, Tế Cách Khả hãn bị thương chưa lành phải dẫn quân tháo chạy, nửa đường vết thương tái phát mạng vong. Tề Bất Trì thừa thế sai Mộ Dung Chính dẫn quân truy kích, giết được hơn vạn tên địch, làm máu chảy thành sông; lại phái Tề Bất Thoái chặn một cánh phục binh trên con đường mà quân Hách Hách ắt phải đi qua khi trốn về nước, tập kích quân Hách Hách thêm lần nữa. Sau trận này, quân Hách Hách đã bị ép phải lùi về đến đô thành Tàng Kinh.
Tề Bất Trì chinh chiến cả đời, kiên trinh can đảm, rốt cuộc vào tuổi sáu mươi đã dựa vào chiến công ở Nhạn Minh quan mà được phong hầu bái tướng, trở thành vị võ tướng tước hầu đầu tiên của triều Đại Chu, Định Huân Hầu. Thái Tổ sai họa sĩ giỏi vẽ lại chân dung ông, cho treo trong Dương Dực điện kề bên Thái miếu ở Thượng Kinh, lưu danh sử sách. Thậm chí năm đó ở vùng phụ cận núi Lạc Thiết, nếu có đứa trẻ nào bướng bỉnh gào khóc không ngơi, người lớn chỉ cần dọa một câu: “Tề Bất Trì tới rồi!”, đứa bé đó ắt sẽ nín bặt, không dám quấy khóc thêm nữa.
Đáng tiếc, ông trời chẳng tha cho ai, sau khi được phong tước ba tháng, Tề Bất Trì đã kiệt sức qua đời, ngậm cười nơi chín suối. Về sau, hậu nhân của ông tuy bị Thái Tông dùng vinh hoa phú quý mà tước đi binh quyền, không còn nắm trong tay thiên binh vạn mã của Đại Chu nữa, thế nhưng gia tộc vẫn hiển hách vô cùng, trải trăm năm không suy chuyển. Nhưng tới năm Càn Nguyên của bản triều, dòng họ Tề nhân đinh dần trở nên thưa thớt, gia tộc cũng theo đó mà suy bại. Thế nhưng dù sao cũng là gia tộc đã sừng sững trăm năm, dư uy của bọn họ vẫn còn, không ai dám xem nhẹ. Hậu nhân của Tề Bất Trì chính là Đoan Phi Tề Nguyệt Tân trong cung hiện nay, đây cũng là nguyên nhân Tề Nguyệt Tân từ nhỏ đã được nuôi trong thâm cung để Huyền