
Công chúa và Thẩm Tiệp dư ở trong cung đều không rời được sự chăm sóc của y. Lúc này chúng ta vốn đã thế đơn lực bạc, lẽ nào còn phải mất thêm vây cánh nữa? Tiểu thư nhất định phải suy nghĩ cho kĩ mới được!” Sau đó lại nói thêm: “Ôn đại nhân kỳ thực cũng đã chiếu cố chúng ta rất nhiều.”
Tôi hơi nghiêng đầu, hờ hững nói: “Y quả thực đã chiếu cố ta rất nhiều, nhưng ta thật sự không thích y.”
Cận Tịch chỉ lặng lẽ đứng một bên, trên mặt chẳng có chút biểu cảm nào. “Tình ý của Ôn đại nhân đúng là khiến người ta cảm động, trên đời này nam tử như y đã chẳng còn được bao nhiêu nữa rồi.”
Tôi không ngờ Cận Tịch lại nói ra những lời như vậy, liền đưa mắt nhìn sang. Hoán Bích cũng hơi sững người.
Ba chúng tôi đều không nói gì, mỗi người mang một tâm tư riêng.
Hoán Bích đi tới bên cạnh tôi, tựa người vào tôi, sắc mặt dịu dàng mà thương cảm, khẽ cất tiếng nói: “Thực ra suy nghĩ lại, Ôn đại nhân và tiểu thư quen biết nhau từ nhỏ, tình cảm y dành cho tiểu thư hết sức sâu sắc. Ngày đó, trước khi tiểu thư vào cung tham gia tuyển tú, Ôn đại nhân đã tới trước mặt tiểu thư bày tỏ tình ý nhiều năm của mình, muốn lấy tiểu thư làm vợ. Khi ấy tiểu thư tâm khí cao vời, ánh mắt tất nhiên không dừng lại trên người Ôn đại nhân. Nhưng giờ đây thời thế đổi thay, tiểu thư trải qua biết bao phong ba trong cung, hiểu rõ rằng tình yêu của Hoàng thượng không hề đáng tin cậy, rồi lại có một người thật tâm thật ý đối xử tốt với tiểu thư, hai bên cũng quen biết nhau từ lâu, tại sao tiểu thư không thử tính toán đến một khả năng khác? Dù có suy nghĩ thêm vài năm cũng tốt, không cần thiết phải trực tiếp buông lời cự tuyệt y ngay.” Thấy tôi chỉ ôm gối không nói năng gì, Hoán Bích lại chậm rãi khuyên nhủ tiếp: “Ôn đại nhân tuy nôn nóng và không biết lựa lúc nhưng tình ý với tiểu thư bao năm như một, chưa từng thay đổi. Hơn nữa, y rất giỏi về y thuật, gia đình lại giàu có, nếu hết lòng tương trợ tiểu thư, chưa biết chừng lại có thể giúp tiểu thư rời khỏi chốn thị phi này.”
Tôi cũng không hẳn là không nghe lọt tai sự khuyên nhủ của Hoán Bích, mà cuộc sống ở nơi này quả có thể nói là gian nan hết sức.
Tôi chỉ hỏi: “Khi y đến, còn nói những gì nữa?”
Cận Tịch trả lời một cách ngắn gọn và rõ ràng: “Ôn đại nhân nói ba ngày sau sẽ quay lại đây lần nữa.”
Phía đằng xa hoa cỏ dập dờn, núi non ẩn hiện, ráng chiều ửng đỏ, từng làn gió nhẹ như có như không thổi phớt qua mặt người mang theo cảm giác lành lạnh. Những sỠphiền não trong thiên hạ này quả là có tránh tới đâu cũng không thể hết được.
Sắc trời dần tối, dường như có vô số cánh quạ che kín bầu trời, tầng tầng lớp lớp, khiến tất cả chìm trong bóng tối. Tôi cảm thấy chán ghét và mỏi mệt, khép chặt hai mắt lại, hờ hững nói: “Hai người ra ngoài đi, để ta suy nghĩ một lát.”
Trong ba ngày này tôi vẫn hết sức bình thản, không nhắc gì đến chiếc bình ngọc.
Tôi cẩn thận đặt bình ngọc vào trong chiếc tủ cạnh giường, ngày nào cũng dùng khăn mềm lau chùi cẩn thận một lượt. Hoán Bích thấy tôi như vậy, lần nào cũng chớp chớp mắt cười với Cận Tịch, Cận Tịch chỉ đáp lại bằng một nụ cười mỉm.
Buổi chiều ba ngày sau, tôi cố tình ở trong phòng chờ sẵn, không ra ngoài làm việc.
Ôn Thực Sơ quả nhiên đã tới. Căn phòng lúc này được quét dọn hết sức sạch sẽ, một nhành hoa lê trắng muốt vừa nở cắm trong bình, từng làn hương thơm thoang thoảng tỏa ra khiến người ta cảm thấy hết sức dễ chịu.
Tôi đã bảo Cận Tịch pha sẵn trà, mình thì ngồi một bên lặng lẽ chờ hắn tới.
Ôn Thực Sơ còn chưa bước vào cửa đã tươi cười, nói: “Hoàn muội muội hôm nay khí sắc tốt quá, sắc mặt cũng hồng hào hơn trước nhiều rồi.”
Có lẽ khí sắc tốt của tôi đã giúp hắn xua đi nỗi thấp thỏm, bất an ban đầu, sắc mặt dần trở nên bình tĩnh, ngồi xuống uống trà và trò chuyện với tôi. Chúng tôi tán gẫu những chuyện vặt vãnh thường ngày, rồi tôi cẩn thận lấy chiếc bình ngọc kia ra, đặt vào giữa hắn và tôi.
Chiếc bình ngọc quả thực rất đẹp và tinh xảo. Tôi dịu giọng nói: “Nếu tiểu muội nhớ không nhầm, năm nay Thực Sơ ca ca đã hai mươi lăm tuổi rồi.”
Nghe thấy lời này của tôi, hắn lộ rõ vẻ mừng rỡ, trong mắt ánh lên những tia dịu dàng hết mực, cười nói: “Trí nhớ của Hoàn muội muội đúng là tốt lắm, ta quả thực đã hai mươi lăm tuổi rồi.”
Tôi nửa như thở dài, nửa như cảm khái: “Hai mươi lăm tuổi, nếu là một người bình thường, lúc này có lẽ đã thê thiếp thành đàn, quây quần con cái rồi. Ôn bá phụ chắc hẳn từ những năm trước đã hết sức phiền não vì chuyện hôn nhân của huynh.”
Hắn muốn nói gì đó song lại thôi, cuối cùng chỉ mỉm cười. “Nếu không thể cưới người mà mình yêu, Thực Sơ thà rằng không cưới.”
Tôi gật đầu, nói: “Thực Sơ ca ca nói đúng lắm, cưới vợ phải nhìn vào đức hạnh, nạp thiếp thì trông vào nhan sắc nhưng bất kể là vợ hay thiếp cũng đều cần bản thân yêu thích mới được, nếu không, cuộc sống sẽ chẳng còn gì thú vị nữa. Do đó, Thực Sơ ca ca có lấy vợ muộn một chút cũng không hề gì.”
Ôn Thực Sơ thoáng lộ vẻ ngượng ngập nhưng cũng rất tán thành những lời này của tôi: “Ta chẳng qua là con nhà quan lại bình thường, lấy vợ muộn một chút cũng không sao.