
m đang nở rộ trên luống, và những bụi cây đều được xén tỉa rất chu đáo. Vừa nhác thấy Reiko, lũ chim đã kêu lên ríu rít và bay chao chát ở trong chuồng.
“Không biết ai dạy nó ăn nói như thế?” Naoko nói rồi thở dài.
Vừa cười, Reiko vừa giải thích, “Anh chàng này có lần suýt bị mèo ăn thịt. Giờ thì sợ mèo đến chết.”
“Sáng nào cậu cũng làm việc này à?” tôi hỏi Naoko.
“Có,” tôi đáp.
“Có quí không này!” nàng nói nựng, rồi đưa nó cho tôi. Quả bóng lông nhỏ bé ấm áp run rẩy trong tay tôi, chun chun cái mũi.
Tôi biết chắc đó là Naoko thật chứ không phải nằm mơ. Rõ ràng là nàng đã cởi áo và phô bày cho tôi tấm thân trần của nàng.
“Buổi sáng là thời gian mình thích nhất trong ngày,” Naoko nói. “Có vẻ như mọi thử đều tươi mới. Đến trưa là mình bắt đầu thấy buồn, và ghét nhất là lúc mặt trời lặn. Ngày nào mình cũng sống qua những cảm giác như thế.”
“Nhưng chị thích già đi cơ mà?” Naoko hỏi.
“Tại sao không?” tôi hỏi.
Quay lại căn hộ, hai người đàn bà thay ủng và đi giày thể thao rồi nói họ phải đi làm đồng. Reiko gợi ý tôi nên ở nhà đọc sách hoặc làm gì đó vì đi xem họ làm đồng cũng chẳng thú vị gì, mà họ cũng phải làm theo nhóm đông người.
“Chị đùa đấy chứ,” tôi nói, hoàn toàn bất ngờ.
“Đúng thế,” Naoko nói và cũng cười vang.
“Ồ, bé ở nhà làm bài tập cho ngoan nhé,” Reiko nói. “Bọn mình sẽ về trước giờ ăn trưa.”
Tôi vào nhà tắm rửa mặt lần nữa, rồi loay hoay cắt móng tay. Đối với một phòng tắm dùng chung cho hai người đàn bà thì mọi thứ ở đây thật quá đơn giản. Ngoài vài lọ xà phòng, kem dưỡng ẩm và chống nắng xếp rất gọn gàng, hầu như không có cái gì có thể gọi là đồ trang sức.
Hai người đàn bà từ ngoài đồng trở về lúc mười một rưỡi, thay nhau tắm rửa và thay quần áo, rồi cả ba chúng tôi đến nhà ăn dùng bữa trưa. Ăn xong, chúng tôi đi ra cổng trước. Lần này thì phòng gác có người thường trực. Ông ta đang ngồi ở bàn ăn bữa trưa, chắc là có người mang từ nhà ăn ra cho. Chiếc đài bán dẫn trên giá đang phát ra một điệu pop xưa mùi mẫn. Ông ta vẫy chúng tôi với một tiếng chào thân thiện, và chúng tôi đều lên tiếng chào lại.
“Tuyệt,” ông nói. “Thời tiết này là các bạn may rồi. Nhưng mà đừng có đến con đường trong thung lũng. Trận mưa to hôm trước làm nó lầy lội lắm. Nhưng chỗ khác thì ổn cả.”
“Đi chơi vui nhá,” ông gác nói. “Và cẩn thận nhá.”
“Ông ấy cũng hơi hơi ở đây này,” Reiko nói, tay chỉ chỉ lên đầu.
Thỉnh thoảng nàng liếc ra sau về phía tôi, mỉm cười khi mắt hai đứa gặp nhau. Con đường mòn đi lên mãi đến chóng cả mặt, nhưng Reiko vẫn xăm xăm bước tiếp. Naoko phải rảo bước theo chị, vừa đi vừa quệt mồ hôi trên mặt. Đã lâu không hăng hái tham gia các hoạt động ngoài trời, tôi thấy hụt cả hơi.
“Thường mỗi tuần một lần,” nàng đáp. “Mệt hả?”
“Sắp đến nơi rồi,” Reiko nói. “Được độ hai phần ba đường rồi. Cố lên, cậu là con trai mà, phải không?”
“Chơi gái suốt mà,” Naoko lẩm nhẩm, như nói một mình.
Đi độ mươi phút nữa thì hết dốc và đến một vùng đất cao bằng phẳng. Chúng tôi nghỉ lại đó một lúc, thở dốc, lau mồ hôi, và uống nước chai mang theo. Reiko tìm một cái lá và làm nó thành một cái còi.
“Người ta đã sống ở đây mãi đến tận bảy tám năm về trước,” Reiko nói với tôi. “Quanh đây từng là nông trại cả Nhưng họ bỏ đi hết rồi. Khó sống quá. Họ bị mắc kẹt khi tuyết xuống dày vào mùa đông. Và đất cũng không màu mỡ gì. Họ có thể sống khá hơn ở thành phố.”
“Có thời một số dân hippy đã định sống ở đây, nhưng rồi cũng bỏ cuộc. Không thể chịu nổi mùa đông.”
Naoko vỗ về đầu con chó và nói rằng nó là con vật nuôi của khu đồng cỏ này. “Mình cuộc là nó phải gần hai mươi tuổi rồi,” nàng nói. “Răng nó hỏng cả, không ăn nổi cái gì cứng nữa. Nó ngủ suốt ngày ở trước cửa tiệm, và hễ nghe tiếng chân là chạy ra mừng.”
“Mình không còn được thấy anh chàng này lâu nữa đâu,” Reiko nói, xoa đầu con chó. “Giữa tháng Mười họ cho hết ngựa với bò lên xe tải và chở về nhà trại. Chỉ mùa hè chúng mới được thả cho ăn có ở đây, và họ cũng mở một kiểu tiệm cà-phê nhỏ cho khách du lịch. Du với chả lịch! Mỗi ngày có độ hai chục dân đi bộ. Này các cậu, ta kiếm cái gì uống chứ hả?”
Con chó dẫn đường đến tiệm cà-phê, một túp nhà nhỏ màu trắng có hiên trước và một cái biển hiệu bạc phếch hình một cốc cà-phê treo dưới hồỉ nhà. Nó đưa chúng tôi lên mấy bậc thềm rồi nằm dài xuống sàn hiên, hai mắt nheo lại. Khi chúng tôi đã ngồi quanh một cái bàn ngoài hiên đó, một cô gái tóc buộc đuôi ngựa mặc may-ô với quần bò trắng chạy ra chào hỏi Reiko và Naoko như thể bạn cũ với nhau vậy.
“Chào anh!” cô gái nói.
Trong khi ba người đàn bà tán dóc với nhau, tôi vuốt ve cổ con chó nằm dưới gầm bàn. Lúc gãi đúng chỗ, nó nhắm mắt và thở dài thật khoan khoái.
“Pêpê.”
“Pêpê!” tôi hét to. Con chó mở mắt và sủa lên một tiếng ra đều đã chú ý.
Naoko và Reiko gọi sữa lạnh. Tôi gọi bia.
Reiko có vẻ rất vui. “Nào, chỉ vì cái này mà bọn mình đến đây đấy nhé! Ở nhà không có đài. Nếu không thỉnh thoảng đến đây thì thật chẳng biết ở bên ngoài họ đang chơi những nhạc gì nữa.”
“Không bao giờ!” cô cười. “Ban đêm ở đây thì buồn chết mất. Mấy anh chăn nuôi cho tôi đi