
c với thầy suốt ba năm mà luôn luôn nhìn thẳng, không bao giờ nghiêng mắt liếc ngang một cái. Mã Dung lấy làm lạ, lòng khen thầm. Khi thành tài, Huyền xin nghỉ trở về. Mã Dung than rằng:
– Hết thẩy học trò của ta, chỉ có một mình Trịnh Huyền lãnh hội được cái học bí truyền của ta!
Trong nhà Trịnh Huyền, ai cũng biết chữ. Ðến lũ đầy tớ gái cũng thông thuộc Kinh Thi. Một hôm có con hầu ăn nói thất thố làm trái ý Huyền, Huyền bắt quỳ dưới thềm rất lâu. Một con khác đi qua trông thấy, hỏi đùa bớn rằng:
– Vì sao mà sa vào chỗ bùn lầy như vậy? (1)
Con hầu bị phạt đám ngay:
– Chợt khi lỡ lời, gặp phải lúc ông ấy đang giận. (2)
Ấy, đại để nếp nhà phong nhã như thế. Ðời Hoàn Ðế, Huyền làm quan đến chức Thượng Thư. Sau gặp loạn Thập Thường Thị, Huyền bỏ quan, về làm ruộng ở Từ Châu.
Khi Huyền Ðức còn ở Trác quận, đã có học với Trịnh Huyền, đến khi làm quan Mục Từ châu vẫn thường đến nhà thỉnh giáo và kính lễ rất hậu.
Bấy giờ Huyền Ðức nhớ ra, mừng lắm, bèn hiệp với Trần Ðăng đến nhà Trịnh Huyền nhờ viết thư.
Trịnh Huyền khẳng khái nhận lời, viết một phong thư giao cho Huyền Ðức. Huyền Ðức liền sai Tôn Càn đi suốt đêm đem qua Hà Bắc.
Viên Thiệu xem thư xong, nghĩ thầm:
– Huyền Ðức đã hại em ta, lẽ nào ta lại giúp hắn, ngặt vì có thư của Trịnh Thượng thư, nếu không đi thì không được.
Viên Thiệu liền triệu tập hết các quan văn võ để bàn việc hưng binh đánh Tào Tháo.
Mưu sĩ Ðiền Phong can rằng:
– Binh chinh chiến luôn mấy năm, bá tánh đều khổ cực, kho đụn thiếu hụt rồi. Nay không thể khởi đại binh được nữa. Chỉ nên trước sai người về Kinh dâng tin thắng trận lên Thiên Tử. Nếu không báo tiệp được thì hãy dâng biểu kể tội Tào Tháo ngăn đường không cho ta phò Vua. Rồi sau này đem binh ra đóng Lê Dương, tăng thêm chiến thuyền dàn ở Hà Nội, sửa sang khí giới, chia quân tinh nhuệ đi đóng chẹn các chỗ biên giới. Như thế, trong vòng ba năm, việc lớn ắt thành.
Mưu sĩ Thẩm Phối nói:
– Không được! Với tài thần võ của Minh công, lại thêm đất Hà Bắc cường thịnh này thì hưng binh đánh giặc Tào dễ như trở bàn tay. Việc gì phải chờ đợi dềnh dang ngày này qua tháng khác?
Mưu sĩ Thư Thụ lại nói:
– Cái sách lược chế thắng không phải ở sự cường thịnh. Vả lại Tào Tháo giỏi thi hành pháp lệnh, quân sĩ tinh luyện, không như hạng Công Tôn Toản ngồi một xó chịu khốn. Nay nếu bỏ cái kế hay “báo tiệp tâu công” mà đi khởi quân vô danh nghĩa, thiết nghĩ Minh công không nên làm.
Nhưng mưu sĩ Quách Ðồ nói:
– Nói thế là sai! Ðem binh đánh Tào Tháo, sao gọi là vô danh? Lúc này, Minh công nên kịp thời mưu đại nghiệp. Xin thể theo lời Trịnh Thượng thư, hợp cùng Lưu Bị, nêu cao đại nghĩa, tiêu diệt giặc Tào, trên hợp ý trời, dưới hợp lòng dân. Thực là cơ hội rất tốt.
Thế là bốn mưu sĩ tranh luận giằng co, Viên Thiệu trù trừ chưa biết quyết định ra sao? Bỗng lại có hai mưu sĩ Hứa Du, Tuân Thầm từ bên ngoài bước vào. Thiệu nói:
– Hai người này có nhiều kiến thức đây. Thử hỏi xem chủ trương thế nào?
Hai người vào thi lễ xong, Thiệu hỏi:
– Có Trịnh Thượng thư gửi thư đến đây, bảo ta giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo. Vậy nên khởi binh hay không khởi binh?
Hai người đồng thanh thưa:
– Minh công lấy nhiều phục ít, lấy mạnh đánh yếu, đánh giặc nhà Hán để phò nhà Hán. Nên khởi binh lắm!
Viên Thiệu cười nói:
– Lời hai ngươi nói rất hợp ý ta!
Liền viết một phong thư phúc đáp, sai Tôn Càn trở về trao cho Huyền Ðức, hẹn chuẩn bị sẵn sàng tiếp ứng.
Sau đó, Viên Thiệu sai Thẩm Phối và Phùng Kỷ làm Thống quân; Ðiền Phong, Tuân Thầm, Hứa Du làm mưu sĩ, còn Nhan Lương và Văn Xú làm Tướng quân, khởi mười lăm vạn mã quân, mười lăm vạn bộ quân, cộng hết là ba mươi vạn tinh binh, nhằm hướng Lê Dương tiến phát.
Thiệu phân phát xong rồi, Quách Ðồ tiến lên nói:
– Nay Minh công lấy đại nghĩa mà đánh Tào Tháo. Vậy phải làm hịch loan truyền trong nhân dân, hài tội của Tháo, làm cho rõ cái lẽ khiến ta khởi binh, để cho danh chánh ngôn thuận thì mới có thêm uy lực.
Thiệu nghe lời, sai viên thư ký Trần Lâm thảo tờ hịch.
Nguyên Trần Lâm tự Khổng Chương, tài văn nổi tiếng. Thời Hoàn Ðế đã làm quan Chủ Bạ, vì can ngăn Hà Tiến không được, rồi gặp loạn Ðổng Trác, chạy loạn lên Ký Châu, được Viên Thiệu dùng làm Ký Thất. Bấy giờ Trần Lâm vâng lệnh cầm bút thảo ngay một bài hịch.
Hịch văn như sau:
Thường nghe rằng: bậc minh chúa gặp nguy mà chế biến, kẻ trung thần lo nạn nước mà tùng quyền. Cho nên, có người phi thường rồi sau mới có việc phi thường. Có việc phi thường rồi mới có công lao phi thường. Người phi thường ấy không phải ai cũng có thể bắt chước làm nổi.
Xưa kia, nhà Tần mạnh gặp lúc vua yếu, Triệu Cao nắm hết quyền bính, chuyên chế việc triều đình, tự mình tác oai tác phúc. Thiên hạ nhiều người oán hận nhưng không ai dám nói gì. Thế mà rồi hắn cũng chết thảm ở cung Vọng Di, tổ tông mang tiếng ô nhục, để tiếng xấu lưu muôn đời.
Cho đến cuối đời bà Lã hậu, hai tên Sản, Lộc chuyên chính, bên trong giữ cả hai quân, bên ngoài thống chế hai nước Lương, Triệu, lạm quyền quốc sự, quyết việc nơi Cấm đình, dưới lăng loàn, trên suy yếu, bốn bể ai cũng đau lòn