
Tam sinh tam thế, chẩm thượng thư (quyển hạ)
Tác giả: Đường Thất Công Tử
Thể loại: Truyện dài tập
Lượt xem: 327142
Bình chọn: 8.5.00/10/714 lượt.
ó ý nghĩa hơn nhiều. Đến lúc đó phiền ngươi đổi lại tên họ cho Vương huynh, mang đến nơi an toàn, để cho huynh ấy sống cuộc sống bình thường thôi”. Một lúc lâu lại nói tiếp: “Ta từng viết cho Trầm Diệp hai mươi phong thư, làm phiền ngươi lấy trở về giúp ta, những tâm ý chân thật ấy, nếu tồn tại ở chỗ của hắn sẽ có chút buồn cười”.
Bạch y thanh niên thở dài một tiếng: “Những gì ngươi phó thác cho ta, ta sẽ nhớ, chỉ mong tới lúc đó không cần tới ta phải đích thân làm. Khi nào ngươi xuống núi?”.
Nàng nằm ngửa ra trên phiến đá, tay đặt phía sau gáy, khóe môi nở ra một nụ cười: “Gió êm dịu, thời tiết ấm áp, hôm nay là ngày để ngủ, cho ta xin thêm
❄ CHƯƠNG 12 ❄ (12)
nửa ngày rảnh rỗi nữa thôi”.
Cảnh đào nguyên phía sau Kỳ Nam sơn dần dần biến mất dưới ánh hoàng hôn nhàn nhạt, Phượng Cửu đè nén tâm tư nặng trịch, cố gắng gợi lên đoạn ký ức cuối cùng. Cô cô Bạch Thiển của nàng rất thích đọc thoại bản*, nàng từ nhỏ ở bên cạnh, đương nhiên cũng đã từng đọc qua khá nhiều. Những chuyện xưa đau thấu tâm can như thể lấy ra từ trong những bình chứa nước mắt, nàng đã đọc không biết bao nhiêu, nhưng so với chuyện trước mắt này, lại không thể sánh được. Đoạn ký ức này thậm chí không có lấy một nửa giọt lệ, nhưng lại giống như một thanh kiếm tuyệt thế, vô cùng lãnh đạm, vô cùng âm u, lúc đoạt đi tính mạnh con người ta thì gọn gàng linh hoạt, tuyệt không có sự ướt át bẩn thỉu. Đau thương của A Lan Nhược thật yên lặng, đau đến vô cùng tĩnh lặng, ngay cả khi chết, cũng rất yên lặng.
*Thoại bản: một hình thức tiểu thuyết Bạch thoại phát triển từ thời Tống, chủ yếu kể chuyện lịch sử và đời sống xã hội đương thời, thường dùng làm cốt truyện cho các nghệ nhân sau này (có thể hiểu là truyện dân gian).
Tô Mạch Diệp nói với Phượng Cửu, sử sách ghi lại năm ấy, Tướng Lý Hạ ngự giá thân chinh, chống cự với kẻ địch mười bảy ngày, lực yếu hơn, chết trên chiến trận. Nhưng sự thực sau cùng che giấu phía sau tờ giấy mỏng, Phượng Cửu đã thấy hết trong đoạn hồi ức này. Chết trận không phải là Tướng Lý Hạ, mà là A Lan Nhược.
Cùng Dạ Kiêu tộc đánh một trận, nguyên nhân là do tộc Tỷ Dực Điểu dung túng dân chúng vượt biên săn thú, hai tộc khai chiến, chiến trường này đương nhiên nằm ở biên cương, nơi có sông Tư Hành xuyên qua, chảy xuôi tới vùng đất phía nam, vượt qua nhiều núi đồi, hòa dòng chảy vào với biển. Đoạn sông hay được nhắc tới trong thơ ca, chính là đoạn Nam Tư Hành, bên cạnh sông có rừng cây trồng toàn những cây nhạc âm. Tỷ Dực Điểu và Dạ Kiêu hai tộc dùng nơi này làm biên giới phân chia.
Ngày bảy tháng tám, A Lan Nhược ra chiến trường. Chiến sự nổ ra, bất quá chỉ sáu ngày, tộc Tỷ Dực Điểu đã mất một bộ phận lãnh thổ lớn, bị đẩy lui về phía nam sông Tư Hành. Tám vạn đại quân tổn thất hai, ba vạn, năm vạn binh sĩ cùng mười hai vạn hùng binh của Dạ Kiêu tộc đứng cách một con sông, đối mặt với nhau.
Từng đạo quân lệnh cầu binh trợ giúp liên tiếp được đưa vào Vương thành, Khuynh Họa lại làm như không nghe thấy, án binh bất động. Trước có hùng binh, sau không ai giúp đỡ, tinh thần binh lính giảm sút, chưa dừng chiến đã lộ ra dấu hiệu thất bại. Lúc ấy, A Lan Nhược lẻn vào trong quân trướng, đánh ngất Tướng Lý Hạ, đưa đi rời khỏi quân doanh, bản thân mình mặc khôi giáp của hắn, trấn giữ trong trướng.
A Lan Nhược dẫn năm vạn binh mỏi mệt, lấy lợi thế sông Tư Hành tạo Bán Nguyệt trận, đẩy lùi Dạ Kiêu tộc, ngăn cản bên ngoài thiên hà. Giữa dòng Tư Hành máu chảy xuôi thuyền, trên bờ phía nam thây xác chất đầy, vốn là cuối mùa hạ, ban đêm từ bờ sông có gió mát thổi qua, lại chỉ thấy những thi thể thối rữa đầy mùi máu tanh. Trận Bán Nguyệt ngăn kẻ địch trong bảy ngày, khiến Dạ Kiêu tộc tổn thất năm vạn binh, nhưng bởi vì lương thảo không đủ mà lâu ngày không có cứu binh, tộc Tỷ Dực Điểu không chống chọi được với việc Dạ Kiêu tộc liên tiếp tấn công, cuối cùng tới nửa đêm ngày thứ bảy, trận pháp bị công phá tại lỗ hổng đầu tiên.
Sao hôm trên trời tỏa sáng, Vương tử Dạ Kiêu tộc vô cùng vui mừng, đang chuẩn bị nhận quân qua sông lại thấy dưới ánh trăng bạc, nhìn ra xa phía ngoài sông, trong tay quân chủ của kẻ địch bỗng hóa ra một cây cung sắt, một thanh âm xé gió lạnh ngắt đến thấu xương vang lên phá vỡ bầu trời đêm, vô vàn mũi tên dài bay thẳng tắp hướng về phía lòng sông, hóa thành ba cột trụ sắt khổng lồ, xếp thành một hàng trên mặt nước.
Chiêu Hồn trận.
Sao hôm chợt bị mây đen cuốn đến che phủ, một luồng kim quang bắn ra từ nơi ba cột sắt dựng đứng giữa lòng sông. Sau khi vút lên bầu không trung, luồng kim quang ngưng tụ lại thành một con chim tỷ dực khổng lồ, lượn vòng quanh hai bên bờ sông, cánh chim như quạt gió, đánh đổ người ngựa đang trong tư thế hào hùng. Cây cung sắt bên thân vẫn chưa được chạm tới, cơn gió mạnh thổi bay mũ sắt trên đầu, mái tóc đen dài xõa tung ra, để lộ một khuôn mặt lãnh đạm mà diễm lệ.
Trong tiếng ngựa hí đầy tuyệt vọng, con chim tỷ dực màu vàng dừng lại trên cột sắt giữa sông, cánh chim bao trùm hơn nửa lòng sông, đôi cánh vỗ thêm một lần nữa, quanh thân tản ra vô vàn ngọn lửa.
Lửa cháy hừng hực thiê