
Giả mà nói rằng:
– Ðồ đệ ôi, đường ở dưới mà gai và dây cóc bủa lên, trừ ra con rắn thì đi đặng, ước sức các ngươi khòm lưng đi cũng còn đụng, huống chi ta cưỡi ngựa, đi làm sao qua khỏi núi này?
Bát Giới nói:
– Không khó gì đâu, tôi sẳn cao cỏ đây, dầu tám người khiêng kiệu cũng có đường đi .
Tam Tạng nói: Tuy ngươi sức mạnh mặc lòng song đường này rất dài, dọn sao cho xiết.
Tôn ngộ Không nhắm phỏng, đường dài mấy mươi dặm mà cùng!
Tôn Hành Giả phụng mạng nhảy lên mấy ngó xuống, xem thấy lắc đầu, liền nhảy xuống thưa rằng:
– Thầy ơi! Tôi coi nó giai giai ngàn ngạn, không biết tới đâu mà cùng, e khi dài tới trót ngàn dậm!
Tam Tạng thất sắc than rằng:
– Như vậy làm sao mà đi qua cho khỏi?
Bát Giới cười rằng:
– Muốn qua cho khỏi thì đi theo lão Trư .
Nói rồi niệm chú, ngay lưng một cái, biểu:
– Dài dài .
Tức thì cao hai trăm thước mộc. Rồi giơ đinh ba giá vài cái, biểu:
– Biến biến!
Cào cỏ dài ba mươi trượng. Hai tay cầm cào cỏ dọn đường gai gốc và dây bịt bùng đều đứt cả hết, Bát Giới cào dẹp lại đường rộng thinh thinh.
Tam Tạng mừng rỡ mười phần cỡi ngựa đi theo Bát Giới, Tôn Hành Giả đi trước vít gai gốc, Sa Tăng gánh đồ hành lý theo sau, đi trọn một ngày đặng một trăm mười dặm, tới một khoảng đất không, có một tấm bia đá vòng nguyệt dựng giữa đường, có khắc ba chữ lớn là Kinh cát lãnh, dưới ba chữ ấy có hàng chữ nhỏ như vầy:
Kinh cát bông phan bát bá lý,
Cổ lai hữu lộ tiểu nhân hành.
Thích nôm:
Dặm thẳng tám trăm nhiều táo mọc,
Ðường ngay cả núi thì ai đi.
Bát Giới đọc hai câu liễn rồi cười rằng:
– Ðể lão Trư tiếp thêm hai câu nữa cho thành bài thi tứ tuyệt .
Nói rồi ngâm rằng:
Tự kim Bát Giới năng khai phá,
Trực thấu Tây Phương lộ tận bình.
Thích nôm:
Từ nay Bát Giới công bồi sửa,
Thấu tới Tây Phương đất trống trơn.
Tam Tạng mừng lòng, xuống ngựa giã ơn rằng:
– Ðồ đệ ôi, thiệt người có công dọn đường mệt mõi quá sức, vậy thì thầy trò ngũ đỡ một đêm mai sáng sẽ đi?
Bát Giới nói:
– Sư phụ nghỉ làm chi, sẳn sáng trăng đi luôn trót thể .
Tam Tạng y lời, đi một đêm tới sáng, rồi đi thẳng tới chiều, xảy nghe gió thổi tợ tờn, tre kêu giống sáo, coi lại cho kỹ là cái miếu hoang trước mặt, xung quanh tòng há trước mai, phong cảnh rất xinh không có gai chông chi hết.
Tam Tạng liền xuống ngựa ngồi nghỉ.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Chỗ này có yêu khí chẳng khá ngồi lâu .
Nói vừa dứt lời xảy có trận gió thổi tới, ở sau miếu có một ông già chống gậy đi trước, lại có một con quỷ mặt xanh, nah bạc tóc đỏ, mình trần, đội mâm bánh đi theo ông già ấy; đồng quì xuống trước mặt Tam Tạng, ông già ấy thưa rằng:
– Ðại Thánh ôi, tiểu thần là Thổ Ðịa núi Kinh cát này, hay đại thánh đến đây nên chúng tôi nghinh tiếp, song chẳng biết lấy chi thiết đãi, xin dâng một mâm bánh phục linh, trước là tôn sư đỡ lòng, sau ba vị nhặm ít nhiều lấy thảo. Vì đường xa tám trăm dặm, mà không có nhà ai .
Bát Giới nghe nói rất mừng bước lại lấy bánh.
Tôn Hành Giả hét lớn rằng:
– Khoan đã, đừng có nóng ăn!
Nói rồi chỉ ông già mà nói lớn rằng:
– Ngươi chẳng phải là người lành, sao dám mạo danh Thổ Ðịa, ấy là tại ngươi muốn gạt Lão Tôn! Hãy coi thiết bãng!
Nói rồi giá thiết bãng, ông già ấy cặp nách Tam Tạng hóa gió bay mất!
Khi ấy Tôn Hành Giả và Sa Tăng, Bát Giới đồng hãi kinh đi kiếm thầy tỏ mỏ!
Còn ông già và con quỷ ấy đem Tam Tạng tới nhà đá để xuống, nắm tay Tam Tạng mời ngồi mà nói rằng:
– Thánh tăng đừng hãi kinh, tôi không phải người quấy: Thiệt là Thập bát Công ở núi Kinh cát, thấy trăng thanh gió mát, nên mời Thánh tăng làm thơ cho vui .
Tam Tạng nghe nói tỉnh hồn, coi lại trăng tỏ như ban ngày, tiếng người nói chuyện đông đảo, lóng tai nghe rõ là ba ông già nói như vầy:
– Vui lắm, vui lắm! Thập bát Công mời đặng Thánh tăng .
Tam Tạng nhìn ba ông già ấy, thấy một ông tóc bạc như sương, còn một người tóc mai màu lục đậu; và một người mặt xanh mét mét, trật áo giơ bụng ốm nhom, đồng bước vào ra mắt. Tam Tạng đáp lễ, và thưa rằng:
– Ðệ tử có đức hạnh bao nhiêu, mà các vị tiên ông thương đến?
Thập bát Công cười rằng:
– Thuở nay nghe tiếng Thánh tăng có đạo đức, nên chúng tôi chờ đợi đã lâu. Nay gặp đặng phỉ tình hoài vọng. Nếu thánh tăng đành lòng đàm đạo và chơi thơ bài với chúng tôi, thì kẻ quê mùa đặng mở mang kiến trí h óa .
Tam Tạng bái và h ỏi rằng:
– Xin các vị đại tiên cho bần tăng biết hiệu?
Thập bát Công nói:
– Ông tóc bạc là Cô trực Công, ông tóc mai màu lục là Lăng không Tử, ông giơ bụng ốm là Phất vân Tẩu. Còn tôi là Thập bát Công, hiệu là Khỉnh Tiết .
Tam Tạng thưa rằng:
– Chẳng hay mấy ông xuân thu đặng mấy?
Cô trực Công không trả lời mấy mươi tuổi, liền ngâm thơ rằng:
Ta sống ngàn năm cứ ẩn danh,
Bốn mùa tươi lá chống trời xanh.
Tuyết sương dày dạn qua nhiều lắm,
Rồng rắn quanh co uốn mấy nhành,
Tứ bé chắc bền từng cũi lục,
Ðến nay ngay thẳng giữ tu hành,
Chơi cùng lũ quạ rồi xem phụng,
Mến núi ưa non lánh thị thành.
Lăng không Tử cười rồi ngâm thơ rằng:
Ngàn năm sương tuyết chẳng dun da,
Lớn cội to xương chắc ruột rà.
Ðêm lặng tiếng như mưa gió tạ,
N