
giờ ra Dương Thái Phó miếu đường mà hạthủ Ni Ma Tinh ?
Đợi Quách Phù và Quách Tường vào phòng nghỉ ngơi, Hoàng Dung mới hỏi :
- Tỉnh ca ! Tôi nghĩ con bé Quách Tường có tâm sự gì mà chẳng dám nói ra. Tỉnh ca có biết được chăng ?
Quách Tỉnh là người thuần hậu, chân thật không hay nghi ngờ nên hỏi lại :
- Tâm sự gì?
Hoàng Dung nói :
- Từ khi nó ra Bắc gửi thiệp anh hùng đến nay tôi thấy nó thường ngơ ngơ ngáo ngáo như người mất hồn. Đêm nay nghe nó nói chuyện tôi thấy thần sắc của nó rất kỳ lạ và cổ quái.
Quách Tỉnh nói :
- Có thể vì nó gặp nhiều việc lo sợ, tâm thần chẳng yên.
Hoàng Dung nói :
- Chẳng phải vậy đâu. Có nhiều điều khác lạ dễ nghi ngờ lắm. Tôi thấy nó cười nửa miệng và không có vẻ lo sợ. Nó không nói điều vui mừng của nó ra.
Quách Tỉnh nói :
- Tiểu hài nhi khi được cao nhân trợ giúp, nó vui mừng lẫn lo sợ nên vẻ mặt như vậy, có gì mà phải nghĩ ngợi ?
Hoàng Dung mỉm cười không nói nữa, mà nhủ thầm :
- Tâm sự nữ nhi, Tỉnh ca biết sao được. Tính tình của Tỉnh ca, lúc trẻ cũng như già, khinh thường và không cẩn thận thì nào có để ý gì đâu.
Hai vợ chồng Quách Tỉnh nói sang chuyện khác, thương lượng với nhau chuyện bố trí phòng địch cho kịp ngày Anh hùng đại yến, vì ngày này phải lo tiếp khách, nên phải an bài mọi kế hoạch phòng thủ trước.
Suy tính xong 2 người về giường an nghỉ. Hoàng Dung nằm trằn trọc trên giường, nhớ đến thần sắc Quách Tường, lòng mẹ thương con như biển rộng, không thể nào ngủ được, bà nghĩ thầm :
- Con gái ta vừa sanh ra một ngày thì gặp điều hoạn nạn, cuộc đời nó có nhiều điên đảo gian nguy, vậy mà vẫn sống khỏe mạnh bình yên, trong 1 6 năm dài, thì không có lý nào giờ phút này biến cố tai nạn đổ lên đầu nó hay sao ?
Lại nghĩ đến cường địch hàng ngày bên cạnh sẽ gieo tai nạn không ít đến sinh mạng bá tánh trong thành, bà phải nghĩ cách nào đề phòng cho hữu hiệu!
Bà lại nghĩ đến Quách Tường, đứa con gái này tâm tính kỳ quặc, nó đã chẳng chịu nói thì dù có đàn áp thế nào nó cũng chẳng thổ lộ cho ai biết.
Hoàng Dung càng lo nghĩ càng khổ tâm không thể ngủ được, bà choàng dậy bước ra ngoài, trổ thuật phi hành đi như bay ra ngoài. Khi đến cửa bà ra lệnh cho quan thủ thành mở cửa, tiến đến miếu Dương Thái phó.
Bấy giờ trống canh từ phía đổ từng hồi, vang dội ra xa. ánh trăng sáng bị chòm mây che khuất, hiện ra cảnh vật mờ mờ.
Từ lúc Hoàng Dung trao quyền Bang chủ Cái Bang cho Lỗ Hữu Cước, thìcây gậy trúc bà đã trao cho Lỗ Hữu Cước rồi. Bây giờ trong tay Hoàng Dung cầm một cây bạch lạp ngắn, triển khai khinh công đi ngang qua sườn núi, cách xa Dương Thái phó miếu 1 0 trượng, bỗng nghe có tiếng phát ra từ Trụy Lệ bia rõ là tiếng 2 người đang trò truyện.
Hoàng Dung núp mình bước nhẹ lần tới cách Trụy Lệ bia chừng vài trượng, bà nép mình sau 2 cây to gần đấy, chỉ nghe tiếng người nói :
- Tôn tam ca ! Ân công bảo chúng ta đợi tại Trụy Lệ bia dạy việc, nhưng sao tấm bia này có cái tên lạvậy ? Ngươi có tin là điềm bất lợi cho ta không ? Tại sao ân công lại chọn chỗ này làm nơi gặp ?
Gã họ Tôn nói :
- Tựa hồ như ân công có một cuộc sống không thỏai mái, như ngươi đã thấy. Nào là đến Đoạn trường ưu sầu, nào là Trụy lệ, khéo chọn những danh từ khổ não, ắt là tâm hồn của ân công có nhiều sự u buồn.
Người này lại nói :
- Từ khi thấy rõ bản lãnh của ân công, mọi việc gì đối với thiên hạ, ân công đều không cho là khó. Nhưng ân công không biết có chuyện gì, đôi mày thường cau lại, tỏ ra buồn bã . Tôi thấy ân công thường uất ức chẳng vui. Như ba chữTrụy Lệ bia, chắc là đúng tâm trạng của ân công. Hay là ân công tự đặt ra, để hợp với hoàn cảnh của mình.
Gã họ Tôn nói :
- Chẳng phải vậy ! Ta được nghe theo Cổ Nhi Thơ tiên sinh nói rằ ng : Về đời Tam quốc, thành Tương Dương thuộc về nhà Ngụy Tấn, quan thủ thành là Dương Hổ bảo vệ thành trì, dân chúng được an cư lạc nghiệp ân trạch thấm nhuần đến quần chúng, lúc bình thời Dương tướng quân hay đến Nghiêm Sơn du ngoạn, sau khi chết rồi, trăm họ đem lòng luyến tiếc, cho nên dựng nơi đây ngôi miếu Dương Thái phó để phụng thờ, và làm bia kỷ niệm. Đến sau trăm họ nhìn thấy tấm bia này, họ tưởng đến công nghiệp và ơn đức của Dương tướng quân, mỗi người qua đây đều khóc òa, do đó tấm bia này được gọi là Trụy Lệ bia. Trần lục đệ ơi ! Một người như Dương Thái phó, thiệt là bậc trượng phu chân chính.
Gã họ Trần nói :
- Ân công trên bước giang hồ hành hiệp trượng nghĩa, rất được lòng người, nếu ân công được làm quan ở Tương Dương, chắc không kém Dương thái phó thủa xưa.
Gã họ Tôn nói :
- Thành Tương Dương đã có Quách đại hiệp danh vang thiên hạ, ân công và Đại hiệp đều có thể so sánh với Dương thái phó được cả.
Hoàng Dung nghe 2 người ca tụng chồng mình, rất lấy làm hài lòng và nghĩ thầm :
- Không rõ 2 người này nói "ân công" là ai nhỉ, có thể ân công của họ là người ra tay ám trợ cho Tường nhi chăng.
Lại nghe g họ Tôn nói :
- Như có 2 người theo ân công, sau phản bội đầu Mông Cổ, cũng được ân công cứu mạng và đối đãi với kẻ địch như với bạn hiền. Hành động này giống hệt như Dương Thái phó. Theo những người hiểu biết về đời Ta