
ết này. Vào những năm trước và sau 1940, khu vực này và khu vực Viện mỹ thuật hiện giờ đã từng hợp nhất thành 1 đơn vị: Ban Kinh doanh dược phẩm tại Đông Á.- Đã bị giặc Nhật chiếm à? Lưu Thạch Tài nghe ù cả tai, nhưng anh ta căn bản vẫn hiểu được- Nói chính xác hơn, là bị các thương nhân Nhật Bản chiếm. Trụ sở chính của ban kinh doanh dược phẩm Đại Đông Á đặt tại Tokyo Nhật Bản, có tên là Công ty TNHH bào chế kinh doanh Dược Kota, công ty tư nhân. Ban Đại Đông Á này chỉ bán hàng ở khu vực Giang Kinh, nhưng nó lại tham gia khắp các hoạt động xuất nhập khẩu đông dược, thuốc Tây, thuốc Đông y bào chế, hoặc thuốc quân dụng của miền Hoa Trung, Hoa Bắc, Hoa Đông, của cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản và 1 số nước Đông Nam Á.Quan Kiện nói “Thoạt nhìn thì chẳng có gì lạ, thời nào chẳng có người làm giàu trong chiến tranh, nhưng nếu tra xét kỹ, nghĩ cho kỹ thì thấy có 2 điều đáng nghi ngờ. Các tài liệu hiện có cho thấy Đại Đông Á này thực chất chỉ là “buôn nước bọt” đôi khi mới mua về 1 ít hàng, một trong 2 khu nhà Viện Mỹ thuật hoặc Trung tâm nghiên cứu thừa sức làm kho chứa, vậy tại sao họ phải hợp nhất địa bàn của cả 2 nơi, lại chỉ để cho các nhân viên sử dụng, tổng số nhân viên của họ lên đến 300 người”Lưu Thạch Tài nói “Thảo nào họ cần khu vực rộng thế này. Ba trăm người ở, thì sập nhà như chơi”- Còn Ban kinh doanh dược phẩm Đại Đông Á ở Quảng Châu cũng làm ăn và có thu nhập tương đương với họ, thì chỉ có 24 nhân viên.Thạch Tài nói “Quả là kỳ quái!”Điều kỳ quái hơn nữa là: Đại Đông Á treo biển vào tháng 4 năm 1939 nhưng đến tháng 11 năm 1940 mới chính thức hoạt động. Theo tài liệu của phòng hồ sơ Giang Kinh, một năm rưỡi ấy của họ dành để “tu sửa” cơ ngơi.- Tu sửa những một năm rưỡi? Thạch Tài đã từng làm nghề xây dựng, hoàn thiện công trình, anh chưa bao giờ nghe nói có thứ hiệu suất kém như thế này.Quan Kiện nói: “Đối vớimột công ty đang hau háu kiếm tiền trong chiến tranh, thì đúng là quá dài. Tu sửa cái gì mà lâu thế?”Satiko nói: “ Đây cũng là câu hỏi của tôi. Khi phòng hồ sơ sắp đóng cửa, tôi phát hiện ra tấm ảnh này”Ánh đèn pin rọi vào bức ảnh photo Satiko đang mở trên tay. Ảnh hơi mờ, nhưng có thể nhận ramột đám người mặc áo đuôi tôm, đội mũ đen đang cùng ngồi ăn ở ngoài vườn “Bức ảnh này lưu trữ ở phòng hồ sơ, chắc là ảnh chụp trong buổi liên hoan khánh thành tu sửa hai khu nhà. Hai anh nhìn mà xem, vị trí họ ngồi ăn chính là chỗ chúng ta hiện đang đứng!”Thạch Tài bỗng kêu lên: “Cái đài màu trắng, trông như đá bạch ngọc hoặc đá cẩm thạch, bề mặt khá to… chứ không phải là cái giá sắt như hiện nay. Tức là họ đã dỡ bỏ cái đài bằng đá rồi thay bằng cái đài bằng sắt… Ý của anh và của cô là ông ngoại tôi năm xưa khỏe mạnh đã bị đưa đến đây làm việc tu sửa cho cái công ty này phải không?”Rất có thể là như vậy, Satiko bỗng im lặng, thở dài.Cảba người đều có cảm giác những con người lao khổ ngày ấy đã lành ít dữ nhiều.Satiko nói: “Anh Kiện đừng buồn nhé…, khi mượn đọc tài liệu ở Phòng hồ sơ, tôi cũng đã nhìn thấy tên của Thi Di trong sổ mượn đọc”Im Lặng.Không rõ Thi Di còn cách sự thật bao xa?Quan Kiện nói “Cảm ơn anh Thạch Tài đã cho chúng tôi biết chi tiết quan trọng về ông ngoại của anh. Chúng tôi ít ra cũng hiểu rằng khu nhà Trung tâm nghiên cứu này cómột quãng lịch sử không hề đơn giản. Chắc hẳn Công ty Đại Đông Á ấy đến đây tu sửa đại quy mô như thế không thể chỉ đơn giản là cải tạo cái đài bằng đá… Muốn lần ra điều bí ẩn, thì phải bắt đầu từ chính khu nhà này”
Ba Du Sinh đã giải quyết xong các công việc trong ngày, đêm khuya yên tĩnh, anh lại quan sát các di vật mà nữ tu sĩ họ Sái để lại. Anh đang cầm trên tay cuốn “Kinh thánh” bìa đen.Sinh hiểu rằng, cũng như Thi Di, bà Sái bị hại bởi vì hung thủ cảm thấy bất an về những con người này. Bà Sái từng chứng kiến ông Yasuzaki Hitoshi bị giết, điều tra cho thấy ông Yamaa Tsuneteru ngày trước từng nhiều lần đến nhà thờ này, và đã tặngmột pho tượng Đức Mẹ, chứng tỏ rất có thể cái chết của bà có liên quan đến cái chết của ông Yasuzaki Hitoshi và ông Yamaa Tsuneteru. Bởi thế Sinh quyết định đi sâu vào các tình tiết này, đặc biệt đưa các di vật của bà Sái về trụ sở để nghiên cứu.Bà Sái sống giản dị, cần kiệm, toàn bộ các vật dụng xếp lại chỉ choán hết non nửa cái mặt bàn. Sinh đã xem các thư tín, vài cuốn sổ ghi chép, bây giờ anh mở cuốn Kinh Thánh in thống nhất quốc tế này. Kinh thánh bao gồm phần Tân Ước và Cựu Ước, in song ngữ tiếng Hebrew (ngôn ngữ cổ, vùng Trung Đông) và tiếng Trung Quốc. Sinh giở lướt các trang, thấy ngoài phần ruột với những dòng chữ bé bằng con kiến ra còn có vài dòng ghi thêm, đại khái là những điều tâm đắc của bà Sái.Tay anh bỗng dừng lại, vì thấy ở giữa chương thứ 29 “Cựu Ước - Sán thế kỷ” cómột cây thánh giá nho nhỏ bằng bạc.Có lẽ dùng để đánh dấu trang đang đọc. Sinh hơi ngờ ngợ, bèn tiếp tục dở xem. Ở giữa chương 4 “Tân ước - Phúc âm thánh John” lại có 1 cây Thánh giá.Tại sao?Sinh đọc kỹ nội dung củahai đoạn kinh thánh, nhận thấy cómột điểm giống nhau rất lạ những từ: “Giếng Jacob” xuất hiện ởhai đoạn kinh thánh này đều bị bà Sái dùng bút k