
ường lại hiểu giản đơn và phiến diện những vấn đề chính trị,
xã hội và mối quan hệ của nó trong cuộc sống cộng đồng. Không riêng ông cụ nhà
tôi, nhiều cán bộ, đảng viên nông thôn hiện nay trình độ hiểu biết về chính
trị, kinh tế, kỹ thuật còn nhiều lỗ hổng lắm. Đến chính sách, pháp luật cũng
còn lơ mơ, chỉ khi nào đụng đến sát sườn mới giẫy lên như đỉa phải vôi, nữa là
việc mãi đâu đâu. Hiểu ông cụ như vậy, tôi không muốn nói gì dài dòng, mà chỉ
bảo:
- Thầy yên tâm đi. Con chỉ làm lợi cho tập thể và xã viên, chứ
không làm mất uy tín của chi bộ đâu mà thầy lo!
Thầy tôi hỏi vặn:
- Nếu cấp trên biết thì anh ăn nói thế nào?
- Con sẽ thành thật báo cáo hết mọi việc.
Ông cụ bỗng nổi khùng, mắng té tát:
- Rõ là đồ hữu dũng vô mưu. Anh không biết cách làm ấy là
sai nguyên tắc quản lý hợp tác xã, đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa hay sao.
Đã cố ý làm sai, còn đòi thành thật…báo cáo! Tôi thật không ngờ anh đã nghĩ
được như vậy, mà vẫn còn nông nổi đến thế!
Quả này đúng là chịu bố già. Tôi chỉ còn biết ngồi ngây ra,
chưa nghĩ được câu gì khả dĩ. Thầy tôi ngồi chân vẫn thõng xuống đất, nhưng lại
bắt chéo chữ ngũ, dáng ngồi thư thái, tĩnh tại. Mẹ tôi như mỗi buổi sớm, đã nấu
xong ấm nước chè xanh từ dưới bếp xách lên, chuyên sang cái ấm tích để trong
dành mà dẫu mùa nóng hay mùa rét, thầy tôi bao giờ cũng chỉ uống một loại nước
chè xanh hãm vào tích ủ trong dành thế thôi. Dường như thầy tồi có ý chờ mẹ tôi
chuyên xong nước vào tích, trở xuống nhà bếp nấu tiếp bữa cơm sáng, mới nói nhỏ
nhẹ chỉ hai bố con nghe:
- Muốn làm, chỉ có cách làm chui hoạ may mới thoát, anh ạ!
Tôi nói ngay, cũng là muốn để xem ông cụ còn cao kiến gì
nữa:
- Chuyện trong nhà giữ còn khó, chuyện ngoài đổng giữa bàn
dân thiên hạ giữ sao nổi, hả thầy?
Ông cụ nói như đã suy nghĩ lung lắm:
- Thế mới phải có sự nhất trí cao trong chi bộ, rồi ra ngoài
dân. Đã làm chui là phải tuyệt đối bí mật. Như ngày xưa du kích đánh bốt chùa
Mụa, rõ đến lúc vào tới trong nhà thằng đồn trưởng, thu hết súng, lay đầu gọi
dậy, nó vẫn còn ôm con vợ ngỗn nghện, miệng lảm nhảm mắng lính làm mất giấc
ngủ. Phải nói rõ với mọi người trong đội này, muốn no bụng phải lo giữ lấy cái
mồm. Ai hở ra, người ấy không được giao mộng khoán, thậm chí cũng không điều đi
làm việc gì ăn công điểm nữa. Phải ngặt nghèo với nhau thế, may mới làm lọt được
vài vụ chăng. Mà cũng chỉ cần vài vụ cho bớt túng bấn quá thôi, rồi ra lại
tính, lộ thì thôi, không lộ cứ làm. Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, chứ
cách thì thiếu gì cách.
Thầy tôi nói đến đấy chợt dừng lời, ngó vào trong nhà, lại
ngó ra tận ngoài bờ ao, đầu ngõ. Ngỡ ông có ý tìm bà, tôi nhanh nhảu: “Mẹ con
vừa rẻo ra đằng sau, có khi đi mở chuồng gà”. Nhưng lại nghe ông cụ bảo: “Mặc
bà ấy”. Thế có nghĩa ông không có ý tìm bà, hẳn là thầy tôi cảnh giác, không
muốn câu chuyện giữa hai cha con lọt đến tai người khác. Ông cụ cẩn thận thế kể
cũng phải, bức vách có tai, biết đâu lọt ra ngoài, một người kín, hai người đã
là trống, phải thành trái, trái thành phải, chẳng biết thế nào mà lường. Giây
lát, ông cụ quay lại nhìn thẳng vào tôi, nói như chính ông mới là người đưa ra
quyết định hệ trọng này, chứ không phải tôi:
- Có khi toàn thể đảng viên trong chi bộ phải cùng nhau ăn
thể, như hồi đánh Pháp chúng tao ăn thề giặc bắt không khai ấy, mới được!
Tôi bật cười, mà không dám cười to:
- Thầy lạc hậu thế. Ngày xưa đảng viên nhiều người không
biết chữ mới phải ăn thề. Chứ ngày nay, cần thì mỗi người tự viết tờ cam đoan,
còn sao phải thề!
Thầy tôi bảo:
- Thế là anh chẳng hiểu gì về tục ăn thề rồi. Để tôi nói cho
mà hay.
Không phải ở đâu cũng có tục ăn thề. Từ xa xưa, cả tổng Nhuế
chỉ có làng Phương Trà là có tục này thôi. Tục bắt nguồn từ cái đêm mơ của một
vị tướng nhà Lý, trên đường mang quân ra trấn cửa Đại Bàng. Tướng quân dùng
chân trên bãi đất đầu làng, nơi sau này được xây lên thành đền. Qua mấy ngày,
dân quanh vùng nơi thì mang thóc gạo sắn khoai, nơi mang trâu bò rượu muối,
nhưng nhiều nhất là người. Nơi nào cũng đưa đến những người đàn ông khoẻ như
vâm, nhanh như sóc, da săn thịt bắp, chỉ nhìn họ đã thấy thắng rồi, chả cần chờ
đến lúc xung trận. Sau những ngày quân lính đồn trú ở làng, một đêm giữa tháng
hai mưa xuân lất phất, Tướng quân đang nồng giấc, bỗng như thấy từ trên trời
từng đoàn người gươm dáo đeo lưng, gậy gộc cầm tay, nườm nượp bay xuống đứng
dăng thành hàng quanh Tướng quân. Không chỉ có người rầm rập dáo gươm, bừng
bừng khí thế, mà còn có cả những chiến thuyền chở quân lính, khí giới, lương
thảo tới tấp lướt về như lá tre, sẵn sàng tiếp ứng cho đạo quân dũng mãnh của
Tướng quân. Giữa lúc giấc mơ đang nồng, bỗng Tướng quân nghe tiếng gà trống cất
lên ba tiếng gáy như reo vui, chào đón, lay động tâm thức lạ lùng. Cùng lúc ấy,
Tướng quân chợt nhớ tới tuổi mình cầm tinh Con Gà, và năm ấy cũng là một năm
Gà. Tiếng gà gáy làm Tướng quân bừng tỉnh giấc mơ. Ngài bỗng cảm thấy như có
điềm báo Trời Phù cho quân tướng của mình trước khi xung trận. Sáng ra, Tướ