
của tôi rồi nói: “Xem ra… tính cách của hầu gia quả thực là có đôi chút kỳ lạ. Hai năm trước, khi hầu gia đến vùng Giang Nam này một lần, lúc quay về thường xuyên hồn phách bay bổng, đương yên đương lành lại làm một chiếc hồ lớn trong phủ, trồng hoa sen, nói rằng muốn ăn ngó sen nổi tiếng vùng Giang Nam. Khi đến Nam Triều cũng thế, không có việc gì hậu gia lại chạy tới đây. Thật ra vào đầu mùa xuân, ở đây lạnh vô cùng, trong hồ không nhìn thấy bất cứ một bông sen nào, nhưng hầu gia lại còn đích thân đề một tấm biển, tựa là “Liên Ức” (Hoài niệm hoa sen) gì đó, cô nương có nhìn thấy hay không?”
Tôi nghe thấy vậy liền ngẩng đầu lên, quả nhiên nhìn thấy tấm biển treo giữa đình đề hai chữ vuông vắn “Liên Ức”, nét bút đẹp đẽ, hoàn toàn không nhận thấy chút bá khí ngạo mạn thường có ở Đường Thiên Trọng.
Vô Song tiếp tục nói: “Khang hầu lúc đầu rất khó tính, còn có chứng sợ bẩn, bình thường Thái hậu và các thần tử trong triều tặng ngài không ít mỹ nữ, nhưng ngài thường không để tâm đến nữ sắc, không thích người khác chạm vào người mình, nói rằng sợ bẩn. Thế nhưng hôm đó khi ngài cứu cô nương về phủ, toàn thân cô nương toàn bùn đất, khiến cho mặt đất, đồ đạc chỗ nào cũng dính bùn, vậy mà ngài chỉ trách bọn nô tì hành động chậm chạp, làm nhỡ việc thay trang phục trị thương của cô nương. Cô nương nói xem, tính cách của Khang hầu phải chăng là quá kỳ lạ?”
Từ trước đến nay tôi biết rằng Vô Song trung thành tuyệt đối với chủ nhân của mình, thật phục cô bé còn biết thuận theo lời nói của tôi để kể cho tôi biết chủ nhân của mình đã đối xử với tôi tốt như thế nào.
Đối xử với tôi tốt.
Quả thực, hắn đối xử với tôi rất tốt.
Có điều tốt đến mức độ hắn phải dồn tình địch và người vợ kết tóc se duyên trên danh nghĩa của mình vào chỗ chết, thật sự khiến cho người khác không dám chấp nhận tình yêu đó.
“Xạ hương thành bụi còn thơm.
Thân sen bẻ gãy còn vương tơ lòng.” [1'>
[1'>. Chuyển dịch từ hai câu thơ trong bài Đạt Ma Chi Khúc của nhà thơ Đường Ôn Đình Quân. Nguyên văn: “Đảo xạ thành trần hương bất diệt. Nữu liên tác thốn ti nan tuyệt”. Trong hai câu thơ này: “hương” đồng âm với “tương”, “ti” đồng âm với “tư”, ghép lại ý nói dù có thế nào thì nỗi “tương tư” cũng vẫn còn đây, tình ý quấn quýt đến chết không thay đổi.
Tôi chậm rãi nghĩ đến mối tâm sự riêng của bản thân, nhìn lá sen xanh biếc dưới mặt hồ, mấy đôi uyên ương đang bình thản bơi lội, liếc nhìn lông vũ của mình dưới mặt nước tĩnh lặng tựa gương.
Đúng lúc đang thất thần, tôi liền nghe thấy tiếng bơi lội trong nước, tiếp theo đó là tiếng tăng ni không ngừng đọc niệm Thánh kinh, giống như trong phủ Nhiếp chính vương đang làm pháp sự gì đó, hơn nữa quy mô không hề nhỏ. Tôi bất giác đứng bật dậy, bước về phía đó vài bước.
Khi sắp sửa bước tới chiếc cầu trúc, Vô Song đã kéo tôi lại, mỉm cười nói: “Cô nương, người nhìn xem mặt trời còn chưa xuống núi, ánh nắng ngoài đó vẫn còn rất gắt, đừng có ra đó. Nếu cô nương thật sự muốn đi tản bộ thì đợi thêm chút nữa, hầu gia tới đây, để hầu gia đưa người đi ngắm phong cảnh trong phủ Nhiếp chính vương, đồng thời cũng không để cho đám binh lính trong phủ Nhiếp chính vương hiểu lầm, có được không?”
Tôi quay đầu lại nhìn cô bé, thấy tôi nhìn cô bé cũng cảm thấy không thoải mái, liền quay đầu nhìn ra hướng khác, nụ cười ngại ngùng, cứng nhắc.
Điểm cuối cùng của cầu trúc, có bốn tên thị vệ ngồi bên cây nghỉ ngơi, thản nhiên như không có chuyện gì uống nước, nói chuyện. Thật không dám tưởng tượng trong phủ Nhiếp chính vương nổi danh quân uy nghiêm ngặt lại có những thị vệ nhàn nhã thế này, lại còn ở ngay nơi hàng ngày Khang hầu ghé thăm.
Nếu như Vô Song không ngăn tôi lại, khi đi đến đầu cầu trúc kia, chắc hẳn mấy tên thị vệ này sẽ xông tới chặn tôi lại chăng?
Tôi lùi lại vài bước, mỉm cười nói: “Ồ, chân ta vẫn chưa hồi phục, không muốn đi lại nhiều. Có điều nghe thấy hướng đó truyền lại tiếng niệm kinh cho nên cảm thấy tò mò mà thôi.”
Vô Song nhanh chóng thở phào nhẹ nhõm, mỉm cười đáp lại: “Bên đó là Tụng Hiền Đường, ở đó đang làm nghi lễ Thủy Lục Đạo Trang, rất đông các hòa thượng, đạo sỹ đang ngồi trong phòng, chẳng có gì đáng xem cả”.
Tôi bất giác gặng hỏi: “Ai đã qua đời sao?”
Thủy Lục Đạo Trang, tên đầy đủ là “Pháp giới thánh phàm thủy lục phổ độ đại trai thánh hội”, là một nghi lễ của đạo Phật dùng để siêu độ, xóa hết mọi tội lỗi của người chết khi còn sống, cho âm hồn có thể nhanh chóng đầu thai chuyển kiếp. Ở đây mà vẫn có thể nghe thấy tiếng động, chứng tỏ nghi lễ này được tổ chức long trọng, thế nhưng tại sao ngày nào Đường Thiên Trọng cũng tới đây, không hề thấy đôi chút bi thương, ai oán nào giống với bộ dáng mất đi người thân chứ?
Vô Song gọi một tiểu nha đầu bưng chén trà Bích La Xuân đã pha đến trước mặt tôi rồi mỉm cười nói: “Làm gì có ai qua đời đâu. Chẳng qua chỉ là hành động hầu gia làm để che mắt mọi người mà thôi. Lúc này trong đại phật đường của cung Đức Thọ cũng đang mời cao tăng, đạo sỹ đến làm nghi lễ này đấy. Cô nương thông minh chắc có thể đoán ra đang làm pháp sự cho ai rồi chứ?”
Lòng tôi chợt t