
bên cạnh anh, nhìn lên bầu trời, không có lấy một bóng trăng sao, giống như tấm bảng đen vô cảm. Gió đêm se lạnh thổi từ vườn hồng tới, phát ra những tiếng lào xào rất khó chịu. Hai gã yêu tinh lợn lòi trước mặt dường như đã chìm sâu vào trong giấc ngủ say sưa, lại còn ngáy o o, nước dãi đã sắp chảy thành sông bên mép.
Thật chẳng đẹp, chẳng lãng mạn chút nào. Lục A Tàng ngỡ rằng mình không phải đang ở Paris, mà là ở trong một thị trấn bình thường, bẩn thỉu, hỗn loạn nào đó.
– Khu dân cư này thực ra cách thành phố không xa lắm. – Anh đã nhìn thấu suy nghĩ của Lục A Tàng, nhìn ra bãi đất trống đã bị san phẳng bên ngoài hàng rào, nói – Cư dân nơi đây đều đã bị đuổi đi hết. Cha của Charlotte lên kế hoạch xây dựng một bệnh viện trang thiết bị tối tân tại đây. Nhiều nhất là một tuần sau, chỗ chúng ta đang ngồi bây giờ, bao gồm tất cả những căn nhà chưa bị dỡ bỏ ở hai bên kia, đều sẽ trở thành bình địa. Có một ông lão sống chết cũng không chịu dọn ra khỏi căn nhà đã sống suốt một đời. Sau đó, ông lão đã mất tích.
Lục A Tàng chẳng chút bận tâm, cười nhạt:
– Những việc thế này cũng chẳng hề hiếm thấy! Kẻ mạnh hy sinh kẻ yếu để đạt được điều mình muốn, chẳng phải phù hợp với thuyết tiến hóa của Darwin ư?
– Ha ha, so với thuyết tiến hóa, thì tôi vẫn thích thuyết tương đối hơn. – Nụ cười của anh dần tan biến, ánh mắt trở nên xa xăm – Bất cứ sự tồn tại nào đều chỉ là tương đối, không có kẻ mạnh tuyệt đối, cũng không có kẻ yếu tuyệt đối. Chúng ta chỉ có bản thân mình.
– Không hiểu, tôi cũng không quen biết Einstein. Những điều anh nói hơi uyên thâm. – Lục A Tàng nói rất thành thật. Từ trước tới nay cô luôn là một kẻ đầu óc đơn giản, không muốn suy nghĩ quá sâu xa. Thế giới, và cả loài người, đối với cô, chỉ có một ý nghĩa – vai diễn. Từ các vai diễn muôn hình vạn trạng, cô thu được lợi ích, được tôn trọng, có được tất cả những thứ mà trước đây cô khao khát nhưng không bao giờ với tới được. Cô hài lòng với cuộc sống đó, chí ít trong lúc này, cô cho là như vậy.
– Căn nhà mà chúng ta đang ngồi đây, chính là nhà của ông lão bị mất tích. – Anh ngoảnh lại nhìn cánh cửa gỗ mục nát phía sau lưng, giọng đầy ma quái – Cô nói xem, liệu ông lão kia có bị mưu sát, rồi vùi xác ở một chỗ nào đó trong ngôi nhà này hay không?
– Nếu anh rảnh rỗi, có thể tìm việc khác mà làm, chứ đừng có dọa tôi. – Lục A Tàng lườm anh một cái. Lời vừa nói dứt, một cơn gió lớn khác hẳn với trước đó thình lình thổi thốc tới, cửa rả phía sau kêu lên cót két. Trong căn nhà, dường như có thứ gì đó rơi xuống sàn, nghe “phịch” một tiếng.
Lục A Tàng cảm thấy sống lưng lạnh toát, nhảy dựng lên khỏi bậc thang gỗ, căng thẳng nhìn vào cánh cửa, dường như có vật gì đó sắp sửa xông ra ngoài. Quả nhiên, cánh cửa đã chậm chạp mở ra một kẽ hở.
Đúng vào lúc đó, trên con đường nhỏ sát với ngôi nhà, chợt nghe đánh “kít” một tiếng, một chiếc xe đạp dừng lại bên ngoài căn nhà, một cậu bé khoảng mười một, mười hai tuổi, đội mũ bóng chày, tay xách một túi giấy căng phồng, nhảy xuống xe, hấp tấp chạy về phía họ.
Một thứ lông lá bù xù thò ra khỏi khe cửa trông giống như lối vào của một căn nhà ma.
Chỉ là… một con chó bình thường, giống như một quả cầu bông xù.
Cậu bé đi băng qua bên cạnh hai người họ, dường như bọn họ căn bản không hề tồn tại. Đôi mắt đen láy của cậu bé hết sức chăm chú, chỉ nhìn chằm chằm vào chú cún con béo tròn kia. Cậu dịu dàng ôm con chó nhỏ lên, khẽ chạm vào mũi nó giống như quở trách, miệng ú ớ những âm tiết mà Lục A Tàng nghe không hiểu. Cậu bé là một người câm.
– Em tới chỗ này làm gì? Em sống ở gần đây à? – Lục A Tàng sử dụng ngôn ngữ bàn tay một cách thành thạo, hỏi cậu bé vừa bất ngờ xuất hiện.
Cậu bé lúc này mới cảnh giác nhìn về phía cô, sau đó lắc đầu, dùng ngôn ngữ bàn tay hỏi lại:
– Các người đến bắt bọn chúng đi phải không?
Cô và anh chàng kia đưa mắt nhìn nhau, rồi đáp:
– Bọn chúng? Chúng tôi chỉ là người qua đường, tiện thể ngồi lại chỗ này nghỉ chân một lát thôi.
Cậu bé thở phào một tiếng, quay người mở cánh cửa ra. Một thứ mùi bụi bặm xộc thẳng tới, song cậu bé không hề để tâm, bước vào trong cửa, thành thạo mò lấy một chiếc đèn pin từ sau cánh cửa, bật sáng, trong họng bật ra tiếng gọi “A…a…”
Trong những tiếng sột soạt khe khẽ, một con chó lông vàng gầy yếu lon ton chạy ra từ trong góc tối; đằng sau, còn có hai con cún con đang hớn hở nô giỡn, trông giống hệt con chó vừa chui ra ngoài cửa.
Cậu bé lấy từ trong túi giấy ra một gói thức ăn nhỏ cho chó, bánh mì mềm, xúc xích, và một bình nước sạch. Cả nhà chó vàng ăn rất ngon lành.
Cậu bé còn cẩn thận cắt xúc xích thành từng miếng nhỏ để cho lũ cún con ăn được dễ dàng. Lục A Tàng và anh chàng kia đứng ở cửa, không bước vào trong.
– Đàn chó này là… – Sau khi lũ chó ăn xong, cậu bé bước ra khỏi cửa. Lục A Tàng bèn hỏi cậu ta.
– Ông Henry không biết đã đi đâu mất, Bell vẫn đợi ông ấy, không chịu đi đâu hết. Nếu em không tới, nó và các con nó sẽ chết đói. – Cậu bé chăm chú ra dấu kể lại. Lúc này, Lục A Tàng mới nhìn thấy trên mặt cậu bé có rất nhiều vết bầm tím, còn có một vế