
óc vừa thu dọn tàn tro, tất cả đã tan thành
tro bụi. Nhưng Đạo Sinh bỗng nhiên kêu lên:
- Mọi người xem này!
Lạ kỳ thay trong đống tro tàn ấy, khi mà hình hài của người quá cố đã hoàn toàn tan biến, thì chiếc lưỡi vẫn còn nguyên vẹn. Tất cả mọi người đều xúm lại, vua Diêu Hưng kinh ngạc, thảng thốt, nhìn trân trối vào
chiếc lưỡi mềm, còn nguyên như của người sống, rồi kêu lên thảm thiết:
- Trẫm mất quốc sư, quốc gia mất đi rường cột.
Đại đệ tử người Khâu Từ của cha là Badyetara trợn tròn mắt nhìn chiếc lưỡi, rồi bật khóc thê thảm, gào lên với các tăng sĩ người Hán:
- Các người chỉ học được một phần mười tri thức của sư phụ mà thôi!
Sau lời nói của Badyetara, tất cả các tăng sĩ đều quỳ xuống quanh chiếc
lưỡi, gào khóc thảm thiết, tiếng kêu thương vang động núi đồi, gió lay
hàng thông rào rào, hòa cùng tiếng khóc thê lương bất tận của con
người...
Kinh văn mà pháp sư Kumarajiva chuyển dịch sang tiếng Hán gồm có:
“Trung luận”, “Bách luận”, “Thập nhị môn luận”, “Kinh bát nhã”, “Kinh pháp hoa”, “Đại trí độ luận”, “Kinh Duy Ma”, “Kinh hoa thủ”, “Thành
thực luận”, “Kinh a di đà”, “Kinh vô lượng thọ”, “Kinh thủ lăng nghiêm
tam muội”, “Kinh thập trụ”, “Kinh tọa thiền tam muội”, “Kinh Di Lặc
thành Phật”, “Kinh Di Lặc hạ sinh”, “Thập tụng luật”, “Thập tụng giới
bản”, “Bồ Tát giới bản”, Phật Tạng, Bồ Tát Tạng, ... Về tổng số các bộ
kinh dịch, theo ghi chép của cuốn “Xuất tam tạng kí tập” – quyển 2, thì
tổng cộng có 35 bộ, 297 quyển. Theo ghi chép của cuốn “Khai nguyên lục” – quyển 4, thì tổng cộng có 74 bộ, 384 quyển. Ngoài ra, pháp sư còn chú
giải cho các cuốn luận như “Thành thực”, “Thập trụ”, “Trung”, “Thập nhị
môn”.
Phần lớn các bản dịch của pháp sư Kumarajiva đều được lưu truyền
rộng rãi cho đến tận thế kỷ XXI, chỉ có một bộ phận nhỏ bị thất lạc.
Chùa Thảo Đường tọa lạc ở chân núi phía Bắc ngọn núi Khuê Phong, thuộc
huyện Hộ, tỉnh Thiểm Tây ngày nay chính là đạo tràng dịch kinh do pháp
sư Kumarajiva chủ trì năm xưa. Trong chùa có thập Xá lị Kumarajiva, là
nơi lưu giữ xá lị của ngài.
Chương 100: Không phụ Như Lai, không phụ nàng
Tôi lái xe trên đường cao tốc Bàn Sơn, trời trong gió mát, thoải mái
dễ chịu làm sao. Đỗ xe giữa một rừng tre trúc um tùm, thanh vắng, sau đó xuống xe, cuốc bộ, tôi chầm chậm cất bước, men theo con đường nhỏ rợp
bóng cây. Hương thơm thanh thanh của mùi bùn đất lẫn trong gió mát ru vỗ tôi, tôi nhắm mắt hít hà thỏa sức, cảm giác như không khí bụi bặm trong phổi mình được thanh lọc triệt để. Mỗi lần đến nơi đây, tôi đều có cảm
giác thanh thản, nhẹ nhõm, bình yên vô cùng, tôi sẽ tắt điện thoại di
động, không để bất cứ ai làm phiền mình. Hôm nay là ngày gia đình tôi
đoàn tụ.
Dòng suối trong veo, chảy róc rách qua các bậc đá trên lối đi, chốc
chốc lại có chú chim cất cao tiếng hót thánh thót rồi vút bay lên không
trung. Có một căn nhà nhỏ ở cuối lối đi. Đằng sau bức tường trát bùn dân dã là một vườn rau củ quả tươi xanh mơn mởn, dưới giàn nho xanh tốt là
một chiếc bàn tròn và những chiếc ghế mây. Căn nhà đơn sơ, thanh tịnh,
nằm bên cạnh chùa Thảo Đường với lối kiến trúc giả cổ là căn nhà của cha mẹ và tôi.
Tôi cắm chìa khóa vào ổ, mở cửa, gọi lớn:
- Cha ơi mẹ ơi, con về rồi!
Ngoài những vật dụng thiết yếu là đồ điện tử hiện đại, còn lại hầu
hết đồ đạc trong nhà đều là những vật dụng xưa cũ. Nhà bếp, phòng khách, phòng ngủ đều đã được lau dọn sạch sẽ. Chiếc hộp gỗ mà cha nâng niu như bảo bối luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất trên bàn đọc sách của
cha. Chiếc hộp đã cũ mèm, bạc màu, nhưng không vương một hạt bụi.
Ra ngoài cũng không tìm thấy, tôi định rút điện thoại gọi cho mẹ,
nhưng lại đút vào trong túi. Họ còn có thể đi đâu được nữa? Chắc chắn đã đến ngôi chùa ở ngọn núi phía trước để tụng kinh rồi. Sư sãi trong chùa đều tin rằng cha mẹ tôi là cư sĩ. Họ vô cùng khâm phục cha về sự thông
tuệ Phật pháp và thường mời cha đến chùa giảng kinh. Có lẽ hôm nay cha
được mời đến đó.
Tôi bước vào đại điện của ngôi chùa nghìn năm tuổi ấy, cả một biển
người đang xếp bằng tụng kinh niệm Phật. Họ đang tụng niệm “Kinh kim
cương”, cuốn kinh mà tôi thuộc nhất. Lặng nghe âm thanh tụng
niệm trầm bổng tựa như một bản đồng ca ấy, sống mũi tôi bỗng nhiên cay
xè vì xúc động. Cuốn kinh này trải qua 1650 thời gian, vẫn tràn đầy sức
sống và được lưu truyền rộng khắp.
- “Tu Bồ Đề, nếu có người đem bảy thứ châu báu với số lượng lớn đến
nỗi, chứa đầy các thế giới, nhiều tới vô lượng a tăng kỳ đề bố thí, thì
phước đức cũng không bằng phước đức của một người con trai
hay một người con gái nhà lành, khi người này phát tâm bồ đề, đọc tụng
thọ trì kinh này và đem thuyết giảng cho người khác nghe, dù chỉ là một
bài kệ bốn câu trong ấy. Thuyết giảng theo tinh thần nào? Thuyết giảng
mà không kẹt vào “tướng”, như như và không động. Vì sao thế?”
“Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bào ảnh Như sương, như chớp lòe
Hãy quán chiếu như thế”.
“Sau khi nghe Phật dạy kinh này, thượng tọa Tu Bồ Đề và các vị khất
sĩ, nữ khất sĩ, Ưu bà tắc, Ưu bà di và tất cả các giới Trời,