XtGem Forum catalog
Đức Phật Và Nàng

Đức Phật Và Nàng

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 326842

Bình chọn: 8.5.00/10/684 lượt.

người đến giải nguy cho tôi rồi! Đó là… là người Hán, hai hòa thượng

người Hán!

Họ trò

chuyện với nhau bằng tiếng Phạn, tôi đứng bên chăm chú quan sát đồng hương.

Rajiva

giới thiệu với tôi, hai vị hòa thượng từ Trường An xa xôi đến đây xin nghe

giảng đạo, pháp hiệu của họ là Tăng Thuần và Đàm Sung. Tôi trợn tròn mắt khi

nghe thấy những cái tên đó.

Tăng

Thuần và Đàm Sung! Chính là hai vị sư này!

Họ đến Khâu Từ học đạo, sau đó trở về Trung Nguyên tấu trình với vua nhà Tiền

Tần khi ấy là Phù Kiên rằng, Kumarajiva là vị pháp sư tài trí hơn người, là

người đã truyền bá sâu rộng kinh văn Đại Thừa, tiếng tăm vang khắp vùng Tây

vực. Một nhà sư nổi tiếng ở Trung Nguyên là Thích Đạo An, nghe danh Kumarajiva

đã lâu, cũng thuyết phục Phù Kiên mời Rajiva đến Trường An. Khi Phù Kiên quyết

định tấn công Khâu Từ, nhà vua đã nói với Đô đốc Lữ Quang rằng: “Trẫm nghe nói

Tây Quốc có Kumarajiva, thông hiểu pháp tướng, giỏi luận âm dương, là một bậc

kỳ tài trong thiên hạ. Trẫm lấy làm ngưỡng mộ. Nhân tài là báu vật của quốc

gia. Vậy, sau khi chiếm được Khâu Từ, khanh hãy lập tức đưa Kumarajiva về đây”.

Câu

chuyện này đã được các tín đồ Phật giáo ngày sau truyền tụng khắp nơi. Họ cho

rằng Phù Kiên phát động chiến tranh với Khâu Từ là vì muốn có được Kumarajiva.

Giống như việc các cô gái tin rằng cuộc chiến thành Troy là vì nàng Helen xinh

đẹp, hay Ngô Tam Quế bán đứng nhà Hán cho triều đình Mãn Thanh là vì nàng kỹ nữ

Tô Châu – Trần Viên Viên. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn đã nổ ra và cướp đi

tính mạng của mấy chục nghìn người, chỉ vì muốn đoạt lấy một người thôi ư,

những câu chuyện như thế mới hấp dẫn làm sao! Tôi là người nghiên cứu lịch sử,

tất nhiên, tôi không tin Phù Kiên phát động chiến tranh chỉ vì muốn có được một

vị cao tăng. Liệu Phù Kiên có thực sự hiểu rõ Kumarajiva sẽ mang lại lợi ích gì

cho ông ta hay không? Nhà vua muốn có Kumarajiva chỉ vì cậu ta thông tỏ âm

dương ngũ hành? Một người tài trí cao vời như Giả Nghị, lẽ nào Hán Văn Đế cũng

chỉ vì muốn ông ta coi bói cho mình?

- Ngải

Tình!

Tôi lại

để tâm trí trôi tận đâu đâu rồi, quay lại đã thấy hai vị hòa thượng đang hành

lễ với mình, tôi vội vàng đáp lễ. Họ là những đồng hương đầu tiên mà tôi gặp

sau hai lần vượt thời gian đến đây.

Rajiva

giới thiệu với họ tôi là cháu gái của người thầy dạy tiếng Hán hồi trẻ của cậu

và tôi đến Khâu Từ để lễ Phật. Tôi chỉ dám trò chuyện đôi câu với họ, bởi vì

những gì tôi biết về thời kỳ Nam Bắc triều thập lục quốc chỉ là những kiến thức

trong sách vở, tôi sợ mình lỡ lời, tiết lộ bí mật lịch sử thì nguy.

Sau vài

lời xã giao với tôi, họ quay sang thảo luận giáo lý Phật pháp cùng Rajiva. Họ

trao đổi bằng tiếng Phạn, tôi nghe không hiểu, nên cũng quay đi ngắm nghía

những bức vẽ trên tường.

- Đoạn

kinh văn ấy dịch sang tiếng Hán có nghĩa là: Bao nhiêu tâm ý của chúng sinh

trong trời đất, Như Lai đều thấu tỏ. Vì sao lại như vậy?

Rajiva

giảng kinh bằng tiếng Hán! Tôi quay lại nhìn cậu ấy và nhận được một nụ cười

đầy hàm ý. Cậu ấy muốn tôi nghe đoạn kinh văn này ư? Tôi ngạc nhiên, nghiêng

tai lắng nghe.

- Đức

Phật nói, mọi tâm niệm đều không thực sự tồn tại, đó chỉ là những ham muốn nhất

thời, thoáng chốc nảy sinh trong từng bối cảnh. Nên người ta đặt cho nó cái hư

danh là tâm niệm. Vì sao như vậy? Bởi vì những ham muốn trong quá khứ là cái đã

trôi qua, không để lại vết dấu, ta muốn mà không có được. Những ham muốn hiện

tại, quẩn quanh trong tâm trí ta, chẳng thể nắm bắt. Những ham muốn của tương

lai, còn chưa sinh ra, càng khó nắm bắt.

Trình

độ tiếng Hán của Rajiva đã đạt đến mức lưu loát, trôi chảy rồi, lại thêm giọng

nói trầm ấm truyền cảm, tựa như nhả ngọc phun châu ấy nữa, khiến mỗi câu mỗi

chữ như làn gió nhẹ vương vào trái tim tôi.

- Vậy

nên, người thuyết giảng Phật pháp vốn không có Phật pháp để thuyết giảng,

thuyết pháp chỉ là danh xưng. Không những không tồn tại Phật pháp để có thể

thuyết giảng, mà ngay cả người thuyết pháp cũng không tồn tại.

Dáng

người cao lớn của Rajiva tọa lạc giữa Phật điện, thoáng một nét cười thỏa

nguyện trên vành môi, cậu khẽ nghiêng đầu về phía hai vị hòa thượng thấp nhỏ

chỉ đến vai mình:

- Những

luận giải của Rajiva, không biết hai vị đã nắm rõ hay chưa?

Tăng

Thuần và Đàm Sung như vừa giác ngộ được chân lý, miệng nhẩm đi nhẩm lại lời

Rajiva vừa giảng giải, ở cả hai vị hòa thượng người Hán đều toát lên vẻ say mê

trong sự lĩnh hội. Tôi lặng ngắm Rajiva. Sự tự tin tỏa khắp con người cậu, sức

hút mãnh liệt từ trí tuệ uyên bác ấy khiến tôi không dám nhìn thẳng. Tuy tuổi

còn trẻ, nhưng ở Rajiva đã tụ hội đầy đủ phong thái của một bậc danh sư.

Buổi

chiều, chúng tôi tiếp tục tham quan ngọn đồi phía bắc, nơi đây có một quần thể

hang đá, gồm rất nhiều căn phòng tọa thiền của tăng sĩ. Nói là phòng tọa thiền

nhưng thực chất chỉ là một hốc đá nhỏ, đủ chỗ cho một người ngồi lọt vào trong.

Rajiva chỉ cho tôi thấy trên vách tường phía sau có dấu vết in đậm hình hài một

con người. Cậu nói rằng, rất nhiều vị cao tăng theo trường phái t