
ao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ
vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng.
Ngày
hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Rajiva. Chùa
Kizil đã thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đá
dành cho các tăng sư tọa thiền đã kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Rajiva với
ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. Không không,
không thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Rajiva chứ! Chắc
chắn tôi đã nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Rajiva rất
nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến một căn phòng thiền đặc biệt, đã được dọn dẹp
sạch sẽ. Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Rajiva và sôi
nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền
một mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy,
tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi im lìm một chỗ, cả ngày không bước chân
ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình không hiểu sâu
những phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại nói cho cùng thì, thứ
thu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đã đẩy mọi nghi hoặc
ra khỏi đầu.
Thiên
Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứ
tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ trên tường.
Phần lớn hang đá là những căn phòng nhỏ ngồi thiền của nhà sư theo tông phái
Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi đã từng khảo sát di tích này.
Trong các phòng thiền không có tranh vẽ, chỉ có một chiếc giường đá rất lạnh,
nhỏ và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất gian
nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đều
do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi đang có mắt ở đây, ngôi
chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đó
hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn đang tất
bật với công việc vẽ tranh của mình.
Hấp dẫn
quá! Đây là một đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra một trong số các công
đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câu
chuyện Phật giáo trên các bức vẽ, bạn sẽ có được một bài luận xuất sắp với giá
trị học thuật cao. Một dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộc
vùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp một tổ chức
từ thiện của Liên Hợp Quốc trong một ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họ
đang mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa đã được sáp
xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với một nghẹ nhân nữ người
Thụy Sĩ đang quỳ trên giá đỡ ở trên cao. Cô cho tôi xem bộ đồ nghề của mình:
Những chiếc bút lớn nhỏ đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹp
nhỏ, nhiều vô kể và không dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát cô ấy vẽ
tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa trên lụa. Những bức họa
sau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được
tái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao
đẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi đang được tận mắt chứng kiến quá
trình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều
này làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều
kiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lên
từ nhựa thông, những nghệ nhân này đã sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao.
Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ
tranh của họ, phác họa những bức vẽ đã hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi được
bận rộn và vui sướng đến thế.
Họ sử
dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc thếp
giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa sẽ thấy những hình ảnh Phật
Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoi
màu xanh da trời. trải qua sự bào mòn của
thời gian và mưa nắng, sắc đỏ trên bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc
khác cũng không giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn
vẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ở
Afghanistan, cách Khâu Từ một nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam quyến
rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu được
các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấp
nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng một trọng lượng. trong không gian động
đá, sự giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh là
một cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là một tài sản lớn. Về sau,
khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hình
tượng, họ đã đang tâm cạo sạch lớp bột vàng trên mình tượng Phật, để lộ lớp đất
đá cằn cỗi tới tận hiện đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫ