
g, chỉ mong được nói thêm vài câu với tôi.”
Cô ấy lại cầm ly lên, rót rượu.
Lần này, tôi không ngăn chặn.
Uống được một ngụm, cô ấy sờ soạng lên gương mặt đang bị nước mắt chiếm
đống, “Ấy…. sao lại khóc thế này, khỉ thật…. làm trò quá đi.”
Cuối cùng, tôi để Trương Lệ Lệ nằm lên giường, trong lòng rất khó chịu. Thế
là một mình ra vườn, gió đêm thoảng qua làm tôi tỉnh rượu hơn.
Đúng lúc này, Mộ Thừa Hòa gọi điện đến. Anh ấy đi được bốn ngày rồi, đã khỏe hơn, đại khái là vì còn trẻ chăng, sức hồi phục cũng nhanh. Chỉ là mỗi
khi phát bệnh xong, tôi đều thấp thoáng cảm thấy thính giác bên trái của anh ấy dường như lại suy giảm hơn.
Nhưng Mộ Thừa Hòa lại không hề để tâm.
“Em đang làm gì vậy?” Anh ấy hỏi.
“Thổi gió đêm ngoài vườn.”
“Tâm trạng không vui?”
“Một chút chút.”
“Sao vậy?”
“Nguyện được người một lòng, cùng đầu bạc răng long.” Tôi đáp.
(3)Hôm sau, Trương Lệ Lệ không nhắc một chữ nào về việc say rượu nói mớ của
mình, tôi không biết cô ấy có nhớ hay không, nên cũng giả vờ như không
có gì xảy ra. Công việc thực tế nhưng bận rộn của tháng quân sự đã dễ
dàng xóa nhòa chuyện này trong đầu tôi.
Nhìn những sinh viên mới lớn này, rời xa cha mẹ để tới đây học vấn, tôi bất giác nhớ lại dáng vẻ của mình năm xưa.
“Cô ơi, lúc cô xõa tóc ra, nhìn hơi giống cô nàng ngổ ngáo á.” Một nam sinh nói.
“Cô nàng ngổ ngáo gì?” Tôi không hiểu.
“Thì cái cô nàng ngổ ngáo trong phim Hàn Quốc đó.”
“Thật ra thì vóc dáng thua xa lắm.” Tôi khiêm tốn.
“Không phải nói chiều cao, chủ yếu là gương mặt bánh bao kìa.”
“……”
Mấy đứa này đang sỉ nhẹ tôi sao?
Gì mà mặt bánh bao, cái này gọi là mặt phúng phính, tôi kháng cáo trong lòng.
Trong khoảng thời gian đó, tôi và Trương Lệ Lệ có đi nhờ xe về trung tâm
thành phố mua ít đồ dùng, không ngờ lại gặp được Trần Đình ngoài ký túc
xá giáo viên.
“Thầy Trần.” Thấy trốn cũng không kịp nữa, tôi đành bưng mặt đến chào.
“Ồ, Tiết Đồng à, trùng hợp thật.” Thầy đến gần, “Tôi có mang ít đặc sản
dưới quê lên cho Mộ Thừa Hòa, nhưng họ nói cậu ấy đã đi công tác ngay
khi năm học mới vừa bắt đầu, còn tưởng là em sẽ có ở nhà, nên mang tới
đây, không ngờ đến hai lần đều không gặp được.”
Tôi nhìn túi đồ trong tay của thầy. Người ngay không làm chuyện mờ ám, xem
ra thầy cũng biết tôi sống ở đây rồi. Nếu đã có ý tránh khỏi Mộ Thừa Hòa để đến gặp tôi, vậy tức là có chuyện muốn nói rồi.
“Thầy Trần lên đó ngồi một lúc nhé.” Tôi nói.
Vào đến nhà, tôi rót cho thầy ly nước, sau đó cũng ngồi xuống trong gượng gạo.
Trần Đình nhìn quanh phòng khách, rất lâu cũng không lên tiếng.
Trong sự việc với Mộ Thừa Hòa, thật lòng mà nói tôi có hơi chột dạ với Trần
Đình. Thầy đã từng cho tôi nhiều lời khuyên và cảnh báo đến vậy, bây giờ xem ra toàn là lời nói qua tai liền quên rồi.
“Mộ Thừa Hòa đã nói với tôi chuyện của hai người.” Cuối cùng thầy cũng mở lời.
Không ngờ thầy không phải nghe từ những lời bóng gió khác, mà là lời bộc bạch của Mộ Thừa Hòa.
“Dạ.” Tôi đáp.
“Con người của Mộ Thừa Hòa, nhìn có vẻ như lúc nào cũng vui vẻ, với ai cũng
nói chuyện được, nhưng thật ra thì không mấy dễ gần. Nếu hai người đã
lựa chọn như vậy, thì em nhất định đừng phụ lòng cậu ấy, cậu ấy không
chịu nổi đả kích như vậy đâu.”
Nghe những lời của Trần Đình, tôi bèn nghĩ, sao mà giống như bố vợ nói
chuyện với con rể thế này! Tôi thì có thể làm gì Mộ Thừa Hòa chứ?
Trần Đình đốt một điếu thuốc lên, “Những ngày này em không ở đây à?”
“Trường em đang trong tháng quân sự, hơn nữa mỗi khi đi công tác, anh ấy đều
bảo em về ký túc xá trường, không cho em ở lại đây một mình.” Có lẽ vì
lo lắng tôi sẽ sợ chăng.
Thầy hút một hơi thuốc lá, rồi nhìn căn hộ.
“Tiết Đồng, tôi và Mộ Thừa Hòa quen nhau cũng mười mấy năm rồi. Cậu ấy là con một, không có anh chị em, lại nhỏ hơn tôi bốn tuổi, vì thế tôi luôn xem cậu ấy như em trai của mình. Và có lẽ, cậu ấy cũng nghĩ vậy.”
“Anh ấy thường kể chuyện về thầy khi còn học ở Nga.”
“Tôi nói với em những lời này, thì không xem em là học sinh của mình nữa,
chỉ là bạn bè, hoặc là em dâu.” Chân mày của thầy nhíu lại giữa làn khói trắng, “Vì thế, chúng ta đang nói chuyện với xuất phát điểm là một
người thành niên.”
“Em hiểu.”
“Tôi sang nước Nga sau khi tốt nghiệp phổ thông, lúc ấy vì điểm thi không
cao lắm, lại thêm vào có người thân làm ăn bên ấy, nên ba mẹ đã đưa tôi
sang đó. Tôi học lớp dự bị, sau đó mới thi vào viện phổ thông.”
Tôi chỉ lắng nghe, không hiểu thầy nói ra những điều này là có ý gì.
“Hai năm sau đó tôi mới quen biết Mộ Thừa Hòa. Lúc ấy,” Trần Đình ngẫm nghĩ
đôi lúc, “Cậu ta độ 17 tuổi. Nghe nói cậu ấy rất nổi tiếng, thứ nhất là
vì thông minh, học bổng cao nhất của Đại học Moscow rất ít khi trao cho
người nước ngoài, nhưng chỉ duy nhất Mộ Thừa Hòa, tuổi nhỏ như vậy mà
lại học lớp cao hơn tôi, tương lai sáng rạng. Thứ hai là vì cậu ấy đẹp
trai, nữ sinh lớn hơn cậu ấy 7, 8 tuổi cũng mang lòng yêu thầm, làm bọn
người chúng tôi đều rất ấm ức. Thứ ba nữa là tính tình cậu ấy cực kỳ dễ
dãi, hiền đến kỳ lạ, thậm chí nếu em đột nhiên tát cậu ấy một cái, cậu
ấy kh