
đen, tôi mắng anh trai, không phải như thế đâu.
Anh lái xe đến, đón tôi rồi đi thẳng ra ga. Nhìn thấy Xuân Thiên bước từ
tàu xuống, anh nói: Trông cũng không có gì đặc biệt, nhưng nhìn thì rất
có khí chất, có phải cũng làm chân cán bộ gì gì trong trường không? Tôi
gật đầu: Chủ tịch hội sinh viên. Anh đã nói rồi mà, nhìn đã thấy quan
cách, nhưng khi tìm hiểu yêu đương với em chắc không bắt em họp đấy chứ?
Anh nói linh tinh gì thế, tôi mắng anh, chỉ là bạn em thôi.
Anh tôi trêu: Bạn học gì mà xa xôi như thế chạy tới đây để thăm em, thần
kinh chắc, anh thấy, cậu ta quả là si tình. Hai từ si tình khiến tim tôi nhói đau, lẽ nào tôi cũng là người si tình sao?
Anh bước lên
phía trước bắt tay Xuân Thiên, họ thân mật trò chuyện, cứ như chẳng liên quan gì đến tôi vậy, anh tôi mắng: Con bé này, sao chẳng biết phép tắc
gì thế. Tôi hờ hững đáp: Là anh ta tự đến!
Đúng đúng, Xuân Thiên ngoan ngoãn nói, là em tự đến, chủ yếu là vì, là vì chưa từng được trải qua mùa đông ở vùng biển bao giờ.
Một lí do chính đáng biết bao, cuối cùng tôi cũng phải cười. Được, tôi nói, nếu chưa từng nhìn thấy biển bao giờ, vậy thì cứ giao cho anh trai em,
ngày mai anh ấy sẽ đưa anh đi xem.
Xuân Thiên cười ngượng ngùng, sau đó nói: Anh chúng ta bận, cứ để người nào rảnh rỗi đưa anh đi được rồi.
Anh mới là kẻ rảnh rỗi. Tôi phản bác.
Đúng, anh chính là kẻ nhàn rỗi. Nếu không, sao anh có thể đến đây tìm em?
Sau khi sắp xếp khách sạn cho Xuân Thiên xong, anh tôi nói: Em đừng như
vậy, người ta từ xa đến, cũng nên quan tâm một chút. Tôi cãi: Ai bảo anh ta đến, em không đi. Anh tôi phê bình: Em thật chẳng ra sao.
Không thể không nghe lời anh. Ai bảo tôi sùng bái anh chứ, anh là người con
trai mà tôi sùng bái, phóng khoáng, mềm mỏng, rất đàn ông, tôi vẫn luôn
không hiểu tại sao anh không ra nước ngoài, còn cả chuyện đêm giao thừa
anh đã đi đâu nữa, anh không chịu kể. Nhưng anh nói gì, tôi đều phải
nghe.
Cuối cùng, tôi là người đưa Xuân Thiên ra biển.
Anh
chàng Bắc Kinh này chưa từng nhìn thấy mùa đông trên biển, anh chạy như
bay lao về phía biển, không sợ lạnh, lại còn cởi giầy, sau đó lao xuống
nước.
Ốm vì lạnh mất, tôi gọi, anh bị cảm thì làm thế nào?
Tôi đứng phía sau anh hét gọi. Anh nói: Không sao, anh chỉ tiếc là không cảm được thôi, nếu cảm, em có thể chăm sóc cho anh.
Em mặc kệ. Tôi giận dỗi ngồi xuống bờ cát, sau đó nghe bài hát mới nhất
vừa down được. Bị ảnh hưởng từ mẹ, tôi rất thích nghe Kinh kịch, càng
ngày càng say mê.
Đến cuối cùng tôi vẫn cứ thích Kinh kịch. Từ
thái độ coi thường ban đầu cho đến sự yêu thích ngày hôm nay là cả một
quá trình lâu dài, cũng giống như đối với một người, không biết là có
bao nhiêu tình cảm, nhưng cuối cùng cũng quên đi sự nghiệt ngã của năm
tháng, vào một giây phút ngẫu nhiên nào đó, cũng phải cảm thấy thương
xót, từ bi.
Mùa hè nóng rực, trong con hẻm của thành phố chật
hẹp, lười biếng nằm trên ghế xếp, trong làn gió mát, bên tai vọng lại
những làn điệu Bì Hoàng cổ xưa. Vào giây phút đó, dường như, thời gian
cũng trở nên đẹp hơn, trần ai cũng muốn nhảy múa…
Chu Tác Nhân đã từng nói, “Ngoài những thứ đồ cần thiết dùng hàng ngày ra, thì chúng ta còn phải có một chút những thứ vô dụng như trò chơi và niềm vui, như
thế cuộc sống mới có ý nghĩa”. Lúc đó, tôi đã hiểu, trò chơi và niềm vui vô dụng kia, chính là Kinh kịch, sau đó tôi đọc cuốn Từ khi tôi diễn
kịch của u Dương Dữ Sảnh mới biết, những người say mê Kinh kịch rất
nhiều. u Dương Dữ Sảnh là hiệu trưởng đầu tiên của trường kịch Trung
Quốc, trước kia có viết Nam u Bắc Mai, ông sớm sang Nhật du học, cùng Lí Thúc Đồng thành lập đoàn kịch đầu tiên Xuân Liễu Xã, hát kịch rất ngọt, rất truyền thống.
Đáng tiếc là rất nhiều người không biết, Dữ
Sảnh tiên sinh chính là một nhân vật tầm cỡ trong thế giới ca kịch, hồi
ức về ông thân thiết, chân thực, gập sách vào mà thấy như thật, cảm giác hoảng hốt nảy sinh, nhất là tôi lại thích phong cách kịch cũ của Thượng Hải, nên cảm giác tĩnh tại hơn. Đấy là cuốn sách ghi chép về người thật việc thật, không chỉ kéo tôi trở về thời kì đầu phát triển nhất của ca
kịch Trung Quốc, dù sao mỗi khi đọc cuốn sách này đều cho tôi cảm giác
như đã trải qua một thời gian dài.
Thật là: Hận mình sinh muộn, nguyện nằm mơ để quay về.
Kinh kịch đối với tôi là kiếp trước, tôi chính là diễn viên trên sân khấu,
tự yêu mình vô cùng, trong lúc khua tay múa chân, dường như quay lại
những năm ba mươi, tôi trên sân khấu, tự hát về đời mình.
Tôi mê
nhất là loại hình “Thanh y Trình phái”, cũng có thể là tôi tự sùng bái
chính mình ở kiếp trước, rất phong tình, rất u uất, rất thê lương, nhưng không chịu thỏa hiệp.
Tôi biết Kinh kịch đối với tôi cũng giống
như hình với bóng, giống như máu chảy trong huyết quản, có một ngày, đột nhiên nghe thấy tiếng ai hát khúc “Nhượng Từ Châu” từ bên đình đối diện trên hồ vọng lại: Còn chưa nói mà nước mắt ta đã rơi lã chã… những giai điệu của Ngôn phái(1), vô cùng tang thương.
(1). Một trường phái Kinh kịch do Ngôn Cúc Bằng (1890-1942) sáng lập.
Tôi nghiêng