
bông ở Tiều chỉ có hành, kiệu, ớt… Trái cây chỉ có ổi và khóm. Ở đất này khá nhất là hai anh em Tiều Ba và Tiều Tư. Chuyện con gái Tiều Ba trai gái với ai có chửa là một thời sự nóng bỏng vào những năm đầu kháng Pháp. Tiều Ba cột cô con gái lại, quơ gậy khảo tra: "Mày lấy ai? Công an? Hành chánh?" Con gái thú nhận "bộ đội". Tiều Ba càng làm dữ: "Bộ đội nào? Nếu mày không lấy Chi đội 21 thì mày lấy Chi đội 7". Chuyện nhỏ mà có mòi xít ra to. Các Chi đội đóng trên đất Tiều gồm có Chi đội 7 của Hai Vĩnh. Chi đội 9 của Bảy Viễn và Chi đội 21 của Tư Hoạnh. Ba đơn vị này phải truy cho ra thủ phạm để tiến tới làm lễ tuyên bố, cứu vãn tình thế không hay cho cô gái, cho Tiều Ba và cho các cơ quan quân sự, hành chánh đóng nhờ nơi này. Tiền hung hậu kiết! Không cần phải điểm binh cho nạn nhân nhìn mặt, mà vào giờ chót, thủ phạm đã đứng ra nhận tội và xin bồi hoàn bằng cách… làm rể Tiều Ba. Vậy là vui cả làng!
Liền sau khi đươc kết nạp, Hai Vĩnh trở về xây dựng Chi đội 7 theo phương hướng của cấp trên đề ra để tiến tới chính quy hóa, - chi đội phiên chế thành trung đoàn - thống nhất các lực lượng võ trang trên toàn quốc thành Vệ quốc đoàn. Kỷ luật phải nắm vững. Hai Vĩnh buộc phải hy sinh hai binh sĩ có nhiều thành tích nhưng phạm nhiều tội nghiêm trọng.
Vụ thứ nhất là đội viên tên Ba Du, liên lạc của Chi đội, đã lợi dụng danh nghĩa bộ đội mượn tiền của Đạo Ông Trần ăn chơi phè phỡn. Tội thứ hai là dụ dỗ, cưỡng bức con gái rồi hắt hủi, nạn nhân lại là tín đồ của Đạo Ông Trần.
Vụ thứ hai là một binh sĩ Nhật theo Chi đội từ đầu. Hai Vĩnh đặt tên cho hắn là Đội Ba. Đội Ba lập nhiều chiến công trên chiến trường, lại biết sửa chữa súng máy, phục hồi khẩu đại liên Lơ-vít (Lewis)… Nhưng Đội Ba đã trở thành kiêu binh, công thần, ngang nhiên cướp chiến lợi phẩm cất trong kho, cuỗm chiếc cặp da đựng tiền lương của địch trong trận đánh giao thông trên đường Phước Hòa; dùng tiền và chiến lợi phẩm ấy dụ dỗ con gái trong vùng đóng quân. Ngoài ra Đội Ba còn lợi dụng lúc vào binh công xưởng sửa chữa súng, liên lạc với tay trong làm chỉ điểm cho máy bay lên bỏ bom nơi này.
Hai Vĩnh lập tòa án quân sự đưa hai tên Du và Đội Ba ra xử. Khi toàn tuyên án tử hình, binh sĩ Nhật trong Chi đội 7 được hỏi ý kiến. Số này rất đông, gần một trăm người. Tất cả đều nhìn nhận Đội Ba đáng tội chết. Hai Vĩnh dành cho Đội Ba một ân huệ cuối cùng là được tự do tâm sự trăn trối vói các bạn người Nhật sau khi anh chết, thì thi hài sẽ được tẩm liệm và mai táng theo phong tục người Nhật.
Để nắm số lính Nhật này, Hai Vĩnh đã nhờ bốn đội viên Trung, Tâm, Hiếu, Nghĩa mà anh đã tiếp xúc đầu tiên vào năm 46. Hay tin quân Nhật ở Bà Rịa có khẩu đại liên Lơ-vit, Hai Vĩnh tốc xuống Bà Rịa ngoại giao. Lúc đó Lê Văn Huề - cũng gọi là Phán Huề - làm chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh. Phán Huề cấp giấy giới thiệu Hai Vĩnh tiếp xúc với đơn vị Nhật đóng ở Bà Rịa. Khẩu La-vit này do bốn tên Nhật phụ trách. Hai Vĩnh trỗ tài ngoại giao thuyết phục lính Nhật giao súng. Kết quả mỹ mãn. Chẳng những chúng chịu giao súng mà còn tình nguyện gia nhập bộ đội Việt Nam chiến đấu tới cùng thay vì bó tay nạp mình cho đồng minh. Hai Vĩnh mừng rỡ làm tiệc đón nhận bốn chiến sĩ quốc tế này đồng thời long trọng đặt tên cho họ là Tâm, Trung, Hiếu, Nghĩa. Anh cũng giao cho họ phụ trách khẩu đại liên đó luôn. Ngoài lính Nhật còn có một số linh Âu, phần lớn là lê dương. Ông Bảy Trân đã phái Perrier (Pe-ri-ê) đến Chi đội 7 giúp Hai Vĩnh lãnh đạo đội quân quốc tế này, quân số trên một trăm năm mươi người. Tháng tư năm 1947, Lâm Ngọc Đường cấp tốc xuông Tắt Cây Mắm gặp Bảy Viễn báo cáo về cái chết đột ngột của giáo chủ Hòa Hảo. Chỉ có bốn người dự cuộc báo cáo đặc biệt này; thuyết trình viên là Lâm Ngọc Đường. Bảy Viễn và hai cận thần là Tư Sang và Năm Tài ngồi nghe với tất cả bàng hoàng vì mới tháng nào đây, Thầy Tư Hòa Hảo và đệ tử ruột là Năm Lửa còn đến thăm viếng xã giao Ngài Khu bộ phó. Cũng trong chuyến đi Miền Đông đó, Huỳnh Phú Sổ đã ghé thăm Năm Hà, và trên đường về, dừng lại Bình Hòa thăm Mười Trí. Trong lúc đàm đạo tại văn phòng Chi đội 4 thì mày bay địch bắn. Vùng này là vùng rìa Đồng Tháp Mười ít có cây cao nên phi cơ giặc Pháp tung hoành ngang dọc, sà sát đọt cây thả bom và bắn đại liên. Loại phun lửa mang hai quả bom dưới lườn, chúi xuống hai lần thả hai quả bom rồi tiếp tục quần đảo bắn phá cho tới khi hết đạn mới thôi. Không chỉ bộ đội mà dân chúng cũng biết tánh nết của chúng. Ngày ấy ba chiếc phun lửa lên quần trên vùng đóng quân của Chi đội 4. Huỳnh Phú Sổ, Năm Lửa cùng một số tín đồ Hòa Hảo hoang mang khi lọt vào vòng vây ngày càng thu hẹp lại của ba chiếc máy bay. Cả bọn chạy lăng xăng như bầy gà con thấy diều hâu. Mười Trí đã quen những vu oanh kích như thế, bình tĩnh bảo Huỳnh Phú Sổ "Thầy Tư ngồi đây với tôi. Đừng chạy bậy bạ. Ở đây tôi chắc chắn là an toàn". Cả bọn, thầy tớ đề giao hết tinh thần lẫn thể xác cho Mười Trí. Ba chiếc máy bay thả đủ sáu quả bom rồi quần, bắn chung quanh đó. Bắn hết đạn chúng bay đi. Năm Lửa thờ phào, rút khăn lau mồ hôi trán cho Giáo ch