
ểu thư nói mình nghiệp chướng nặng nề, phải
tụng kinh sám hối, Mạc Hi bất đắc dĩ chỉ đành cùng đến đại điện.
Vãn
điện có tất cả ba giờ tụng niệm:
Giờ
tụng niệm đầu tiên là vì lễ Phật, niệm , chuyển động quanh
phật, trở về vị trí cũ, biểu thị ý nguyện khẩn cầu được vãng sinh đến thế giới
tây phương cực lạc.
Giờ
tụng niệm thứ hai là cúng bái tám mươi tám vị phật còn lại, niệm
đại thiên hối văn>. Tám mươi tám vị phật gồm năm mươi ba phật thêm ba mươi
lăm phật. Tên năm mươi ba phật có trong , là phật trong thế giới Ta Bà ở quá khứ; tên ba mươi lăm vị như
lai trong
hiện tại. Tám mươi tám phật này đều có thể vì chúng sinh tác thiên hối chủ, chúng
sinh có thể thông qua đó mà bày tỏ ý nguyện hối cải về những tội ác đã phạm. cũng xuất phát từ . Sám hối, giản lược từ một ngàn chữ của Phạn văn sám ma, hối là dịch
nghĩa của thiên ma, tức là thừa nhận sai lầm với người nào đó, mong được khoan
dung tha thứ. Cũng có thể giải thích là tiêu tan nghiệp chướng, không tạo ra
quả đắng trong tương lai. Theo quy định của người xưa, niệm <đại sám hối
văn> phải lạy một trăm lẻ tám lần, Mạc Hi cảm thấy so với hiện đại quỳ tụng
mà không lễ bái còn long trọng trang nghiêm hơn nhiều.
Mạc
Hi cùng bát tiểu thư tham dự toàn bộ quá trình, chỉ là hai người không tiện lộ
diện, liền cùng các tăng nhân cách một bức tường tụng kinh. Tiếng tụng kinh của
hơn ngàn người nghe vào tai thực sự là chấn động. Bát tiểu thư nhắm chặt hai
mắt, quỳ trên đệm quỳ, thành kính tụng niệm.
Giờ
tụng kinh thứ ba chính là niệm , cũng lấy một
ít ngọ trai mỗi ngày cho quỷ đói, sau khi ngâm nga và sám hối thì ban ơn cho U
Minh. Quỷ đói được cho ăn bên phải cửa điện, phương trượng Trí Thanh tự mình
chủ trì thí thực (bố thí thức ăn).
Mạc Hi âm thầm phỉ nhổ, những hòa thượng này kỳ thật cũng là treo đầu dê bán
thịt chó, bản thân họ cũng không tin thuyết U Minh, nếu không sao lại đợi thí
thực xong, đem những thức ăn bỏ đi mà U Minh đã dùng, phơi nắng rồi đưa
"Sạn Phạn Lâu" tích trữ cơm thừa trong chùa, gom góp cả năm, đến mùng
tám tháng chạp nấu thành cháo mồng tám tháng chạp phân tặng tín đồ.
Xong
vãn khóa, hai người cùng về Tùng Vụ Viện ngủ.
Đại
tiểu thư xuất hành, hòm xiểng phải thu thập nhiều đến chóng mặt. Thị nữ Mặc Phù
của bát tiểu thư bận bịu chân không chạm đất, nào là gương trang điểm tương
ngân bạch ngọc, nào là hộp trang sức gỗ lê khảm đồi mồi, và một đôi điền ngọc
đấu, nhang vòng hương hoa quế, nhiều vô số kể.
Dù
đã có người sắp xếp, bát tiểu thư vẫn tự mình chuẩn bị trang phục. Nhưng mà,
chùa miếu không thể so với trong phủ, quần áo tụng kinh lễ Phật không thể quá
mức sặc sỡ. Vị bát tiểu thư này cũng là người thành tâm, xiêm y chỉ mang theo
hai rương. Theo quan sát của Mạc Hi, nói là trắng mộc mạc, nhưng mỗi bộ đều có
thể so với nghê thường vũ y. Đừng nói gì khác, chỉ riêng bộ váy lụa mỏng từ màu
da trời chuyển dần sang màu khói, giống như một vết mực đậm từ từ loang dần,
tới mép váy liền nhạt đến không nhìn rõ, cổ áo ống tay áo đều dùng chỉ bạc thêu
hai vòng mây, lúc cử động quả thật là mỗi bước nở một đóa hoa, hoa khai đạm mặc
ngân.
Bên
này Lăng phủ gà bay chó sủa chuẩn bị hành trang. Bên kia Mạc Hi trực tiếp đi
cửa sau tới tìm Như Vụ.
Đến
vừa lúc yêu tăng này đang ở rừng trúc sau núi tự mình nhưỡng rượu. Tay áo xắn
cao, chân mang hài cỏ, đang cầm một cái chén sứ thanh hoa lớn có hình cá chép
cùng màu múc nước trong vại. Gió lướt qua, rừng trúc xanh ngắt phía sau cùng
động, như sóng biếc cuồn cuộn, nổi bật lên tăng bào tuyết trắng như mây bay của
y, như muốn mượn gió mà trở lại. Khá lắm yêu tăng phong hoa tuyệt đại!
Mạc
Hi lập tức vạch trần y không tuân thủ thanh quy giới luật.
Như
Vụ cũng không ngẩng đầu lên, nói: "Muốn khiến tất cả người đời tin tưởng,
dùng cách cũ chưa hẳn là đúng."
Mạc
Hi không buông tha nói: "Người ta uống rượu, có thể thay phật dát vàng. Có
thể đưa vô số cây gỗ lớn từ trong giếng ra ngoài, huynh uống rượu, cả nước
giếng cũng không múc được, sao có thể học người ta."
Lời
nói sắc bén của hai người đều trích dẫn một câu trong <Ấn Quang pháp sư phục
bàng khế trinh thư>, đại ý là Ấn Quang pháp sư nói Tế Công là thánh nhân
thần thông quảng đại có thể dùng rượu thịt qua ruột mà trong lòng vẫn nghĩ đến
cách truyền bá Phật hiệu của Phật tổ, nhưng ngộ cảnh phùng duyên, không phải ai
cũng đạt đến cảnh giới phật pháp đó. Tế Công uống rượu, có thể từ trong giếng
nước lấy ra gỗ*, người bình thường có thể làm được sao? Việc này không phải tùy
tiện có thể học được. Vì thế khuyên răn người tuyên truyền Phật hiệu phải tuân
theo cấm giới của Phật. Nếu không thuận theo Phật chế (quy định của cửa Phật),
tức là ma loại.
* Điển tích Tế Công lấy gỗ từ trong
giếng: Tương truyền Tế Công là một trong mười tám vị La Hán giáng thế, ông tu ở
chùa Linh Ẩn nhưng sau đó ông bị buộc phải bỏ chùa bởi vì trụ trì ghen tị với
quyền năng của ông. Sau đó ông chuyển đến chùa Tịnh Từ. Có lần chùa bị cháy mà
ko có gỗ để xâ